TOÀ PHÚC THẨM PARIS
Phân Toà thứ nhất, Ban C
BẢN ÁN PHÚC THẨM
Ngày 10 / 02 / 2005
(Số…………, 5 trang)
Số đăng ký thụ lý: 2002/14377
Bản án bị kháng nghị phúc thẩm: Bản án của Toà án sơ thẩm thẩm quyền rộng CRÉTEIL (phân toà thứ 8), ban hành ngày 13 tháng 6 năm 2002 – Số thụ lý: 2002/8080
BÊN kháng NGHỊ
Viện Công tố
Tham gia tố tụng dưới danh nghĩa
Viện trưởng Viện Công tố
bên cạnh Toà phúc thẩm Paris
Địa chỉ : Viện Công tố
Palais de Justice
4, Boulevard du Palais
75001 PARIS
Đại diện bởi bà ROUCHEREAU, Công tố viên cao cấp
bÊN BỊ KHÁNG NGHỊ
Ông Mohammad KAMRUZZAMAN
Sinh ngày 10/06/1963 tại NOARAI-SUNAMGONJ (Bangladesh)
Trú tại 70, phố Louis Blanc
94140 ALFORTVILLE
Đại diện bởi luật sư BETTINGER,
với sự hỗ trợ của luật sư Laurence ROQUES
được thay thế tại phiên toà bởi luật sư ABDOULI
luật sư Đoàn luật sư Val-de-Marne
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TOÀN PHẦN
Số Văn phòng trợ giúp pháp lý: 2002/035234
Quyết định ngày 20 tháng 11 năm 2002
bÊN BỊ KHÁNG NGHỊ
Bà Jesmin AKTHER, vợ của ông KAMRUZZAMAN
Trú tại 70, phố Louis Blanc
94140 ALFORTVILLE
Vắng mặt.
THÀNH PHẦN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Phiên xét xử đã diễn ra công khai ngày 4 tháng 1 năm 2005, với thành phần hội đồng xét xử gồm:
Ông PÉRIÉ, chủ toạ
Ông MATET, thẩm phán
Ông HASCHER, thẩm phán
Hội đồng xét xử đã nghị án.
Lục sự, tại phiên tranh luận trước toà: Bà FERRIE
Đại diện Viện Công tố tại phiên tranh luận trước toà: Bà ROUCHEREAU, Công tố viên cao cấp, đã trình bày ý kiến tại phiên toà.
BẢn án PHÚC THẨM
– Được ban hành theo thủ tục tranh tụng
– Được tuyên tại phiên xét xử công khai bởi ông PÉRIÉ, chủ toạ
– Có chữ ký của ông PÉRIÉ, chủ toạ, và Bà FERRIE, lục sự có mặt khi tuyên án.
*
* *
Theo bản án ngày 13 tháng 6 năm 2002, Toà án sơ thẩm thẩm quyền rộng CRÉTEIL đã bác yêu cầu của Viện công tố về việc huỷ hôn nhân giữa ông Mohammad KAMRUZZAMAN, sinh ngày 10 tháng 6 năm 1963 tại Noarai/Sunamgonj, Bangladesh, quốc tịch Pháp và bà Jesmin AKTHER, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1975 tại Noarai-Chhatak, huyện Sunamgonj, Bangladesh, quốc tịch Banladesh, được tổ chức ngày 3 tháng 2 năm 1994 tại Noarai-Chhatak, do hết thời hiệu.
Viện công tố đã kháng nghị phúc thẩm bản án này.
Tại quyết định ngày 13 tháng 11 năm 2003, Toà phúc thẩm đã yêu cầu Viện công tố nêu rõ lý do căn cứ của việc triệu tập lại bà KAMRUZZAMAN ra toà, yêu cầu các bên cung cấp quy định pháp luật hôn nhân và gia đình của Banladesh và căn cứ vào các quy định pháp luật đó giải thích về ý nghĩa của việc kết hôn theo thủ tục tôn giáo và của việc đăng ký kết hôn, đặc biệt là phải cho biết việc kết hôn theo thủ tục tôn giáo có xác lập hay có được coi là hôn nhân dân sự không.
Viện công tố cho rằng vợ chồng KAMRUZZAMAN đã kết hôn ngày 3 tháng 2 năm 1994 trong khi ông KAMRUZZAMAN đã lập gia đình ở Pháp và chỉ chấm dứt quan hệ hôn nhân này theo quyết định của toà án ngày 17 tháng 2 năm 1999, đồng thời cho rằng giấy đăng ký kết hôn do cơ quan hộ tịch Bangladesh cấp ngày 2 tháng 3 năm 2000 không xác lập hôn nhân dân sự.
Viện công tố yêu cầu toà án tuyên bố huỷ quan hệ hôn nhân đã được xác lập ngày 3 tháng 2 năm 1994 tại Bangladesh giữa KAMRUZZAMAN và AKTHER và ghi chú việc huỷ hôn nhân vào lề giấy khai sinh của những người này; […].
Ông KAMRUZZAMAN yêu cầu khẳng định bản án sơ thẩm, bác yêu cầu của Viện công tố và được công nhận hôn nhân chính thức cho hai vợ chồng và cho rằng hôn lễ ngày 3 tháng 2 năm 1994 tại Bangladesh là hôn nhân theo thủ tục tôn giáo không có hiệu lực trong pháp luật Pháp và pháp luật Bangladesh, hôn nhân dân sự chỉ được xác lập ngày 2 tháng 3 năm 2000 sau khi quan hệ hôn nhân được xác lập trước đó ở Pháp đã chấm dứt theo quyết định cho ly hôn của toà án.
Ông KAMRUZZAMAN còn thông báo rằng, trái với Viện công tố, luật sư của ông không thể yêu cầu trợ giúp của cơ quan lãnh sự Bangladesh hay của ngân hàng dữ liệu của các bộ và cũng không thể yêu cầu hợp tác trong lĩnh vực pháp luật; do không thể cung cấp nội dung pháp luật Bangladesh nên phải áp dụng luật của toà án nơi xét xử; trong pháp luật Pháp, chỉ có kết hôn theo thủ tục dân sự mới được công nhận, trong khi đó việc kết hôn đã được tiến hành theo thủ tục dân sự bởi cán bộ hộ tịch, nên việc kết hôn theo thủ tục tôn giáo không có hiệu lực pháp luật và không có hệ quả; rằng ngày 3 tháng 2 năm 1994 là ngày tổ chức kết hôn theo thủ tục tôn giáo, hai vợ chồng ông kết hôn theo thủ tục dân sự ngày 2 tháng 3 năm 2000 vì ngày đó có những người làm chứng và giấy chứng nhận kết hôn đã được lập. Do đó, ông KAMRUZZAMAN khẳng định không vi phạm chế độ một vợ một chồng.
Bà KAMRUZZAMAN đã được gửi giấy triệu tập ra toà lần thứ nhất và lần thứ hai.
Trên cơ sở đó, Toà án
Xét thấy, theo quy định tại khoản 3 điều 3 Bộ luật dân sự, điều kiện hợp pháp về nội dung của hôn nhân được xác định theo quy định pháp luật của mỗi bên vợ chồng; rằng khi vợ và chồng có quốc tịch khác nhau như trong trường hợp này, chồng quốc tịch Pháp và vợ quốc tịch Bangladesh, cần áp dụng riêng pháp luật của mỗi nước và mỗi bên vợ chồng phải đáp ứng được các điều kiện do pháp luật của nước mình quy định; tuy nhiên, có những cản trở từ hai phía, theo đó quan hệ hôn nhân chỉ được thừa nhận nếu không bị pháp luật của bất cứ bên nào huỷ; đó là trường hợp vi phạm chế độ một vợ một chồng bị nghiêm cấm trong pháp luật Pháp ;
Xét thấy các bên không thống nhất quan điểm trong việc xác định quan hệ hôn nhân của ông bà KAMRUZZAMAN-AKTHER đã được xác lập ngày 3 tháng 2 năm 1994 hay ngày 2 tháng 3 năm 2000, Viện công tố cho rằng quan hệ hôn nhân được xác lập ngày thứ nhất trong khi ông KAMRUZZAMAN thì cho rằng đó là ngày xác lập hôn nhân theo thủ tục tôn giáo không có hệ quả trong pháp luật Pháp và rằng hôn nhân dân sự đã được xác lập vào ngày đăng ký kết hôn, ngày 2 tháng 3 năm 2000;
Xét thấy các bên chỉ viện dẫn những căn cứ không rõ ràng trên cơ sở những ý kiến trái ngược về các văn bản, giấy tờ do các bên đưa ra mà chưa cung cấp văn bản pháp luật của Bangladesh – căn cứ duy nhất cho phép xác định hiệu lực của hôn nhân tôn giáo được tổ chức ngày 3 tháng 2 năm 1994 theo pháp luật nước ngoài; rằng do Toà án chưa có thông tin đầy đủ nên căn cứ quy định tại điều 232 Bộ luật tố tụng dân sự mới, trưng cầu giám định với nội dung yêu cầu giám định quy định trong phần quyết định,
Với các căn cứ trên đây, tuyên bố
Trước khi xét xử về nội dung,
Quyết định trưng cầu giám định,
Yêu cầu Ban Nghiên cứu luật so sánh – Trường Đại học Paris I – CNRS 9, phố Malher 75004 PARIS, thực hiện giám định
với nhiệm vụ:
- gặp mặt các bên và luật sư của các bên để yêu cầu cung cấp các tài liệu cần thiết, đặc biệt là các giấy tờ chứng nhận kết hôn,
- Tìm hiểu hiệu lực của hôn nhân theo thủ tục tôn giáo theo luật của Bangladesh,
- Cho biết, căn cứ vào luật đó, quan hệ hôn nhân có được xác lập không sau khi tổ chức hôn lễ theo thủ tục tôn giáo hay quan hệ hôn nhân chỉ được xác lập sau khi đăng ký kết hôn,
- Trả lời nhận xét của các bên,
Ông KAMRUZZAMAN được hưởng trợ giúp pháp lý nên không phải tạm ứng phí giám định, phí giám định sẽ được trả bằng ngân sách nhà nước,
Giám định viên phải tuyên thệ theo quy định tại điều 6 luậtngày 29 tháng 6 năm 1971 (đã được sửa đổi bởi luật ngày 11 tháng 2 năm 2004) và đính kèm văn bản tuyên thệ vào báo cáo giám định,
Giám định viên phải nộp hai bản báo cáo giám định cho Lục sự của Toà án (Ban Hoàn tất hồ sơ) trước ngày 30 tháng 6 năm 2005,
Giám định viên phải nộp mọi giấy tờ cho Toà án phúc thẩm, tại 34 phố Orfèvré – 75055 Paris Louvre SP, Ban Hoàn tất hồ sơ, văn phòng giám định, cho ông Daniel Boulanger, Lục sự trưởng, điện thoại 01.44.32.75.57,
Giám định viên phải gửi cho mỗi bên một bản báo cáo giám định,
Chỉ định ông Hascher, thẩm phán phụ trách hoàn tất hồ sơ, giám sát việc giám định,
Chuyển hồ sơ vụ án cho bộ phận hoàn tất hồ sơ,
Chưa thanh toán án phí.