BẢO VỆ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Mục tiêu
Mục tiêu của tài liệu này là nhằm trang bị cho các cán bộ toà án (chủ yếu là thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện) những kiến thức cơ bản về lý thuyết cũng như thực tế về sở hữu công nghiệp để giúp các thẩm phán có thể giải quyết được các vụ án liên quan đến sở hữu công nghiệp một cách độc lập, đúng đắn. Đối tượng cụ thể mà tài liệu này hướng tới là thẩm phán của các toà hành chính và toà dân sự, toà hình sự.
Sở hữu công nghiệp bao gồm nhiều đối tượng khác nhau như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, bí mật kinh doanh. Trên thực tế, các vụ tranh chấp, xâm phạm quyền đối với các đối tượng này cũng ở mức độ khác nhau, chủ yếu là các vụ việc liên quan đến đối tượng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu. Do vậy, nội dung tài liệu sẽ tập trung sâu hơn vào 03 đối tượng sở hữu công nghiệp này.
I. Ý NGHĨA, VAI TRÒ CỦA QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thúc đẩy các hoạt động sáng tạo cũng như thu hút đầu tư cả từ trong nước và nước ngoài
Nói chung, quyền sở hữu trí tuệ là các quyền xuất phát từ các sáng tạo trí tuệ của con người (như sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch IC v.v.). Để có được các thành quả sáng tạo trí tuệ này, thường phải đầu tư trí tuệ, công sức, tài chính v.v. và trong nhiều trường hợp khoản đầu tư này là rất lớn (ví dụ, thông thường để có thể đưa ra thị trường một loại thuốc chữa bệnh (tân dược) mới, cần phải tiêu tốn khoảng 100 triệu đôla Mỹ). Vì lẽ công bằng, chủ đầu tư của các thành quả này cần phải được bồi đắp chi phí đầu tư, từ đó có động lực cho hoạt động sáng tạo và đó chính là chức năng của hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Nhà nước sẽ dành cho chủ sở hữu một khoảng thời gian nhất định để độc quyền khai thác và ngăn cấm người khác khai thác thành quả sáng tạo của mình nhằm thu hồi vốn đầu tư và thu lợi một cách hợp lý.
Một chế độ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp có hiệu quả sẽ thúc đẩy đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, đặc biệt thu hút các công nghệ mới, tiên tiến phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước. Chỉ có xây dựng và thực thi một chế độ bảo hộ có hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp thì các nhà đầu tư nước ngoài mới tin tưởng các thành quả đầu tư của họ sẽ không bị đánh cắp ở Việt Nam và từ đó họ mới có thể sẵn sàng chuyển giao cho các doanh nghiệp Việt Nam hoặc trực tiếp đầu tư vào các doanh nghiệp do họ sở hữu ở Việt Nam.
2. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh
Sẽ không công bằng nếu một người bỏ vốn đầu tư để nghiên cứu tạo ra các sản phẩm mới cũng như đầu tư cho quảng cáo, khuyến mại để người tiêu dùng biết và mua sản phẩm trong khi một người khác không phải tốn kém vẫn bán được hàng do nhái sản phẩm của người khác. Đây chính là chức năng tạo dựng và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh của cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Bằng cơ chế bảo hộ độc quyền, pháp luật sở hữu trí tuệ chống lại mọi hành vi sử dụng các dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ cũng như những hành vi bộc lộ, sử dụng trái phép thông tin bí mật được bảo hộ v.v., từ đó tạo dựng và bảo vệ được môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
II. KHÁI NIỆM VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ CÁC ĐỐI TƯỢNG SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Khi nói đến sở hữu công nghiệp, chúng ta sẽ liên tưởng đến khái niệm sở hữu trí tuệ. Theo thông lệ, sở hữu trí tuệ là một khái niệm chung nhất trong đó bao hàm ba nhánh, đó là quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng mới. Đến lượt sở hữu công nghiệp thì đây cũng là một khái niệm chung dùng để chỉ hàng loạt các đối tượng cụ thể.
Khi tiếp cận vấn đề sở hữu công nghiệp dưới góc độ giải quyết các vụ việc tranh chấp, xâm phạm quyền, chúng ta nên tiếp cận đến từng đối tượng cụ thể nằm trong nội hàm của khái niệm này mà không dùng khái niệm chung là “sở hữu công nghiệp”. Theo khoản 4 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì “Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.”
1. Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
Với khái niệm như trên, chúng ta thấy rằng điều kiện tiên quyết để một đối tượng có thể được coi là sáng chế là đối tượng đó phải là giải pháp để giải quyết một vấn đề bằng biện pháp kỹ thuật. Những giải pháp không mang tính kỹ thuật sẽ đương nhiên bị loại trừ khỏi phạm vi bảo hộ dưới danh nghĩa là sáng chế (có thể đối tượng đó sẽ được bảo hộ theo quy định pháp luật khác, ví dụ phần mềm máy tính không được bảo hộ dưới dạng sáng chế nhưng lại được bảo hộ theo quy định về quyền tác giả).
Tuỳ thuộc vào việc đáp ứng các điều kiện theo luật định, sáng chế có thể được bảo hộ bằng hình thức Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
Để được cấp Bằng độc quyền sáng chế, sáng chế phải đáp ứng 3 điều kiện sau:
– có tính mới (tính đến trước ngày nộp đơn yêu cầu cấp Bằng, giải pháp kỹ thuật nêu trong đơn chưa được bộc lộ công khai ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, kể cả Việt Nam);
– có trình độ sáng tạo (có nghĩa là giải pháp kỹ thuật nêu trong đơn không hiển nhiên đối với người có trình độ trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng);
– có khả năng áp dụng công nghiệp (có nghĩa là có thể áp dụng giải pháp kỹ thuật bằng phương pháp công nghiệp hoặc với quy mô công nghiệp).
Giải pháp kỹ thuật đáp ứng điều kiện tính mới và khả năng áp dụng công nghiệp như nêu trên và không phải là hiểu biết thông thường có thể được cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích (không yêu cầu điều kiện có trình độ sáng tạo).
Theo quy định, có một số đối tượng không được bảo hộ dưới dạng sáng chế (quy định tại Điều 59 của Luật sở hữu trí tuệ). Ngoài ra, các đối tượng trái với trật tự công cộng, đạo đức xã hội cũng sẽ không được bảo hộ (khoản 1 Điều 8 Luật sở hữu trí tuệ).
Cần lưu ý phân biệt khái niệm “sáng chế” và khái niệm “phát minh”. Sáng chế là giải pháp để giải quyết các vấn đề kỹ thuật. Con người với trí tuệ của mình “sáng tạo” ra các đối tượng vật thể hoặc các quy trình chưa tồn tại trên thế giới này. Nói cách khác, nếu không có sự sáng tạo của con người thì không thể có sản phẩm hoặc quy trình được bảo hộ là sáng chế. Luật sở hữu trí tuệ bảo hộ sáng chế bằng hình thức cấp độc quyền có thời hạn cho chủ sở hữu. Trái lại, “phát minh” là một sự phát hiện ra những quy luật, hiện tượng, vật thể v.v. đã tồn tại khách quan trong thế giới vật chất. Con người không “sáng tạo” ra các đối tượng được “phát minh” mà thực tế chỉ “phát hiện” ra chúng mà thôi. Luật sở hữu trí tuệ không bảo hộ phát minh.
2. Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
Để được bảo hộ, kiểu dáng công nghiệp phải đáp ứng 3 điều kiện sau:
– có tính mới (cách xác định tương tự như đối với sáng chế)
– có tính sáng tạo
– có khả năng áp dụng công nghiệp
3. Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (sau đây gọi là thiết kế bố trí) là cấu trúc không gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn.
Mạch tích hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm, trong đó các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn nhằm thực hiện chức năng điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC, chip và mạch vi điện tử.
4. Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu.
Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau.
Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
5. Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Khu vực kinh doanh quy định tại khoản này là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng.
Ví dụ: CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ là một tên thương mại với đầy đủ các thành phần, trong đó CÔNG TY CỔ PHẦN là yếu tố chỉ loại hình doanh nghiệp, BÁNH KẸO là yếu tố chỉ lĩnh vực kinh doanh và HẢI HÀ là yếu tố tên riêng để phân biệt với các doanh nghiệp khác, ví dụ CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU.
6. Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.
Ví dụ: TÂN CƯƠNG (cho sản phẩm chè), ĐOAN HÙNG (cho sản phẩm bưởi quả), PHÚ QUỐC (cho sản phẩm nước nắm), COGNAC (cho sản phẩm rượu mạnh) v.v.
7. Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
III. NGUYÊN TẮC XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Như đã đề cập ở trên, quyền sở hữu công nghiệp là quyền đối với nhiều đối tượng cụ thể khác nhau. Đối với từng đối tượng, quyền được xác lập hoặc phát sinh trên những cơ sở khác nhau. Cần phải đặc biệt lưu ý đến những cơ sở xác lập hoặc phát sinh này vì không phải quyền đối với mọi đối tượng đều phát sinh trên cơ sở đăng ký và ngược lại. Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ quy định chi tiết về các căn cứ này, cụ thể như sau:
1. Quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp phát sinh trên cơ sở quyết định cấp Văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (theo quy định của pháp luật thì đó là Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ).
Như vậy, đối với những đối tượng sở hữu công nghiệp trên đây, quyền chỉ phát sinh khi Cục Sở hữu trí tuệ ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ. Thời điểm bắt đầu bảo hộ, thời hạn bảo hộ và phạm vi quyền đối với từng đối tượng cụ thể được ghi nhận trong các văn bằng bảo hộ tương ứng. Không có ngoại lệ về căn cứ xác lập quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp này.
2. Về cơ bản, quyền đối với nhãn hiệu được phát sinh trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của Cục Sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, còn có một số căn cứ xác lập quyền khác trong một số trường hợp đặc biệt, cụ thể như sau:
Thứ nhất, quyền đối với nhãn hiệu đăng ký quốc tế (nhãn hiệu của các chủ thể nước ngoài đăng ký bảo hộ tại Việt Nam nhưng không tiến hành nộp đơn trực tiếp cho Cục Sở hữu trí tuệ mà nộp đơn thông qua Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới theo quy định của Thoả ước Madrid hoặc Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu) được xác lập trên cơ sở quyết định công nhận bảo hộ của Cục Sở hữu trí tuệ. Trong hầu hết các trường hợp, nhãn hiệu đăng ký quốc tế có hiệu lực tại Việt Nam mà không có văn bằng bảo hộ được cấp như đối với các nhãn hiệu được đăng ký trực tiếp tại Cục Sở hữu trí tuệ (văn bằng bảo hộ như vậy chỉ được cấp khi có yêu cầu cụ thể của chủ sở hữu). Thông thường, để chứng minh quyền sở hữu nhãn hiệu đăng ký quốc tế có hiệu lực tại Việt Nam, chủ sở hữu sử dụng các văn bản xác nhận của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới hoặc Cục Sở hữu trí tuệ và các văn bản xác nhận này sẽ được sử dụng trong quá trình thực thi quyền (kiện tụng, tranh chấp v.v.). Một điểm cần lưu ý khi tiếp cận thuật ngữ nhãn hiệu đăng ký quốc tế trong mục này, đó chính là nhãn hiệu của người nước ngoài đăng ký tại Việt Nam theo thủ tục quốc tế chứ không phải là nhãn hiệu đăng ký có hiệu lực ở phạm vi quốc tế (về điểm này, tham khảo thêm nội dung bản chất lãnh thổ của quyền sở hữu công nghiệp thông qua phân tích về hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu ở phần sau của tài liệu này.)
Thứ hai, quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký. Như vậy có thể thấy rằng đây là một ngoại lệ rất cần lưu ý, đặc biệt khi xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng.
Thông thường, khi khởi kiện vụ án dân sự về hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, nguyên đơn phải chứng minh tư cách chủ thể quyền của mình (bằng việc nộp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc xác nhận về nhãn hiệu đăng ký quốc tế đang có hiệu lực tại Việt Nam). Tuy nhiên, đối với nhãn hiệu nổi tiếng thì thay vì nộp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc xác nhận đăng ký quốc tế có hiệu lực tại Việt Nam, nguyên đơn sẽ cung cấp các chứng cứ chứng minh nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng và do đó mặc dù chưa được đăng ký nhưng vẫn được bảo hộ để chống lại việc người khác sử dụng. Những chứng cứ để chứng minh nhãn hiệu nổi tiếng được trình bày tại phần VII của tài liệu này liên quan đến việc xác định hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.
3. Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng hợp pháp tên thương mại đó tương ứng với khu vực (lãnh thổ) và lĩnh vực kinh doanh mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký.
Cần lưu ý tên thương mại về cơ bản là tên doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc đăng ký doanh nghiệp trong đó có đăng ký tên doanh nghiệp không phải là một thủ tục để xác lập quyền đối với tên thương mại. Khi đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể đăng ký nhiều tên như tên đầy đủ, tên viết tắt, tên giao dịch, tên giao dịch bằng tiếng Anh v.v. nhưng những tên đó chỉ có khả năng được bảo hộ khi chúng được sử dụng trên thực tế và ngoài ra tên đó phải đáp ứng điều kiện bảo hộ (tức là phải có khả năng phân biệt). Nếu một tên doanh nghiệp được thể hiện trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng không được sử dụng trên thực tế thì tên đó sẽ không có khả năng được bảo hộ.
4. Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở đầu tư tài chính, trí tuệ hay bất kỳ cách thức hợp pháp nào để tìm ra, tạo ra hoặc đạt được thông tin và bảo mật thông tin tạo thành bí mật kinh doanh đó mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký.
5. Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh.
IV. THỜI HẠN BẢO HỘ CÁC ĐỐI TƯỢNG SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Thời hạn bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp là khác nhau, cụ thể như sau:
1. Đối với sáng chế, có hai loại văn bằng bảo hộ được cấp với thời hạn bảo hộ khác nhau.
Sáng chế được cấp Bằng độc quyền sáng chế được bảo hộ từ ngày cấp Bằng đến hết 20 năm tính từ ngày nộp đơn.
Sáng chế được cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích được bảo hộ từ ngày cấp Bằng đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn.
Đối với hai loại văn bằng bảo hộ này, cần lưu ý một điểm sau: Bằng độc quyền có hiệu lực 20 năm hoặc 10 năm tính từ ngày nộp đơn nhưng không phải là sau khi được cấp, các Bằng độc quyền đó sẽ tự động có hiệu lực đến hết 20 năm hay 10 năm. Pháp luật có quy định hằng năm chủ Bằng độc quyền phải nộp lệ phí duy trì hiệu lực. Nếu chủ sở hữu không thực hiện nghĩa vụ này thì Bằng độc quyền sẽ tự động chấm dứt hiệu lực ngay sau khi lệ phí duy trì hiệu lực cho năm tiếp theo không được nộp (xem Điều 95 Luật sở hữu trí tuệ). Do vậy, khi xử lý các vụ việc liên quan đến sáng chế, các cơ quan liên quan cần phải lưu ý đến điểm này (có thể yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ cung cấp thông tin để biết một Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích đang còn hiệu lực hay không,).
Một điểm cần lưu ý nữa là thời điểm phát sinh quyền đối với sáng chế cũng như các đối tượng sở hữu công nghiệp khác mà quyền được xác lập trên cơ sở đăng ký sẽ là ngày cấp văn bằng bảo hộ chứ không phải là ngày nộp đơn. Đối với một số đối tượng sở hữu công nghiệp, tồn tại quyền tạm thời kể từ ngày công bố đơn đến ngày cấp văn bằng bảo hộ (đề nghị xem quy định cụ thể tại Điều 131 Luật sở hữu trí tuệ).
2. Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ từ ngày cấp Bằng độc quyền đến hết 5 năm tính từ ngày nộp đơn và Bằng độc quyền này có thể được gia hạn hiệu lực liên tiếp 2 lần, mỗi lần 5 năm.
Như vậy, thời hạn có hiệu lực tối đa của một Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp là 15 năm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là Bằng độc quyền sẽ không tự động có hiệu lực đến hết 15 năm mà khi hết kỳ hiệu lực 5 năm trước, chủ Bằng độc quyền phải làm thủ tục gia hạn tại Cục Sở hữu trí tuệ (và sẽ được ghi nhận vào Bằng độc quyền) thì Bằng độc quyền mới tiếp tục có hiệu lực cho kỳ hạn sau.
3. Nhãn hiệu được bảo hộ từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn và Giấy chứng nhận có thể được gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần 10 năm.
Có thể thấy là về nguyên tắc, nhãn hiệu được bảo hộ vô thời hạn với điều kiện sau mỗi 10 năm, chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu phải làm thủ tục gia hạn hiệu lực tại Cục Sở hữu trí tuệ (và sẽ được ghi nhận vào Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu).
Thời hạn bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế có hiệu lực tại Việt Nam cũng tương tự như thời hạn bảo hộ nhãn hiệu được đăng ký trực tiếp tại Cục Sở hữu trí tuệ.
4. Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được bảo hộ từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký và và chấm dứt hiệu lực vào ngày sớm nhất trong số những ngày sau đây:
– Kết thúc mười năm kể từ ngày nộp đơn;
– Kết thúc mười năm kể từ ngày thiết kế bố trí được người có quyền đăng ký hoặc người được người đó cho phép khai thác thương mại lần đầu tiên tại bất kỳ nơi nào trên thế giới;
– Kết thúc mười lăm năm kể từ ngày tạo ra thiết kế bố trí.
Trong Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, m một trong ba (hoặc cả ba) sự kiện trên sẽ được đề cập để tính thời hạn bảo hộ chính xác của thiết kế bố trí liên quan.
5. Quyền đối với chỉ dẫn địa lý có hiệu lực vô thời hạn kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý.
Cần lưu ý là quy định ”vô thời hạn” không đồng nghĩa với ”vĩnh viễn”. Khái niệm ”vô thời hạn” được hiểu là chỉ dẫn địa lý sẽ còn được bảo hộ chừng nào chỉ dẫn địa lý đó còn đáp ứng điều kiện bảo hộ. Trong trường hợp chỉ dẫn địa lý không còn đáp ứng điều kiện bảo hộ thì hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký liên quan sẽ bị chấm dứt.
V. KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC XÁC LẬP (ĐĂNG KÝ) QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP (đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý)
Như đã được trình bày ở trên, quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở đăng ký với Cục Sở hữu trí tuệ. Các vấn đề liên quan đến thủ tục đăng ký xác lập quyền được trình bày tóm tắt sau đây.
1. Quyền đăng ký
Việc quy định quyền đăng ký các đối tượng sở hữu trí tuệ có ý nghĩa quan trọng vì điều đó liên quan đến việc xác định người sẽ trở thành chủ sở hữu quyền được bảo hộ. Quyền đăng ký các đối tượng sở hữu công nghiệp khác nhau là khác nhau và được quy định cụ thể tại các Điều từ 86 đến 88 Luật sở hữu trí tuệ.
1.1 Quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí:
Quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí thuộc về các chủ thể sau:
– Tác giả tạo ra sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí bằng công sức và chi phí của mình;
– Tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả dưới hình thức giao việc, thuê việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác và trường hợp nêu tại điểm tiếp theo sau đây – được quy định tại Điều 9 Nghị định 103/2006/NĐ-CP ngày 22.9.2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp);
– Trong trường hợp sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra trên cơ sở Nhà nước đầu tư toàn bộ kinh phí, phương tiện vật chất – kỹ thuật, quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước được giao quyền chủ đầu tư có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện quyền đăng ký nêu trên.
Trong trường hợp sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra trên cơ sở Nhà nước góp vốn (kinh phí, phương tiện vật chất – kỹ thuật), một phần quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí tương ứng với tỷ lệ góp vốn thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước là chủ phần vốn đầu tư của Nhà nước có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện phần quyền đăng ký nói trên.
Trong trường hợp sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra trên cơ sở hợp tác nghiên cứu – phát triển giữa tổ chức, cơ quan nhà nước với tổ chức, cá nhân khác, nếu trong thoả thuận hợp tác nghiên cứu – phát triển không có quy định khác thì một phần quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí tương ứng với tỷ lệ đóng góp của tổ chức, cơ quan nhà nước trong việc hợp tác đó, thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước tham gia hợp tác nghiên cứu – phát triển có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện quyền đăng ký nêu trên.
Tổ chức, cơ quan nhà nước thực hiện quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 9 Nghị định 103/2006/NĐ-CP, đại diện nhà nước đứng tên chủ Văn bằng bảo hộ và thực hiện việc quản lý quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng đó, có quyền chuyển nhượng phần quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí của Nhà nước cho tổ chức, cá nhân khác với điều kiện tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng phần quyền đăng ký phải trả cho Nhà nước một khoản tiền hoặc các điều kiện thương mại hợp lý khác so với tiềm năng thương mại của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí đó.
Trường hợp nhiều tổ chức, cá nhân cùng nhau tạo ra hoặc đầu tư để tạo ra sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí thì các tổ chức, cá nhân đó đều có quyền đăng ký và quyền đăng ký đó chỉ được thực hiện nếu được tất cả các tổ chức, cá nhân đó đồng ý.
Những người có quyền đăng ký nêu trên đây có quyền chuyển giao quyền đăng ký cho tổ chức, cá nhân khác dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, để thừa kế hoặc kế thừa theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp đã nộp đơn đăng ký (trong trường hợp này được gọi là chuyển giao đơn đăng ký đã nộp).
1. 2. Quyền đăng ký nhãn hiệu
Quyền đăng ký nhãn hiệu thuộc về các chủ thể sau đây:
– Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hoá do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp.
– Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó.
– Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể; đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ, tổ chức có quyền đăng ký là tổ chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất, kinh doanh tại địa phương đó.
– Tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hoá, dịch vụ có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đó.
– Hai hoặc nhiều tổ chức, cá nhân có quyền cùng đăng ký một nhãn hiệu để trở thành đồng chủ sở hữu với những điều kiện sau đây:
+ Việc sử dụng nhãn hiệu đó phải nhân danh tất cả các đồng chủ sở hữu hoặc sử dụng cho hàng hoá, dịch vụ mà tất cả các đồng chủ sở hữu đều tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh;
+ Việc sử dụng nhãn hiệu đó không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc của hàng hoá, dịch vụ.
Những người có quyền đăng ký nhãn hiệu trên đây, kể cả người đã nộp đơn đăng ký có quyền chuyển giao quyền đăng ký cho tổ chức, cá nhân khác dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, để thừa kế hoặc kế thừa theo quy định của pháp luật với điều kiện các tổ chức, cá nhân được chuyển giao phải đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền đăng ký loại nhãn hiệu tương ứng.
Đối với nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên thì người đại diện hoặc đại lý đó không được phép đăng ký nhãn hiệu nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
1.3 Quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý
Quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý của Việt Nam thuộc về Nhà nước.
Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, tổ chức tập thể đại diện cho các tổ chức, cá nhân đó hoặc cơ quan quản lý hành chính địa phương nơi có chỉ dẫn địa lý thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý. Người thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý không trở thành chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý đó.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài là chủ thể quyền đối với chỉ dẫn địa lý theo quy định pháp luật của nước xuất xứ có quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý đó tại Việt Nam.
2. Cách thức nộp đơn đăng ký quyền sở hữu công nghiệp
Tổ chức, cá nhân Việt Nam, cá nhân nước ngoài thường trú tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nộp đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.
Cá nhân nước ngoài không thường trú tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài không có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nộp đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.
3. Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên trong thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp (Điều 90 Luật sở hữu trí tuệ)
Trong trường hợp có nhiều đơn của nhiều người khác nhau đăng ký cùng một sáng chế hoặc đăng ký các kiểu dáng công nghiệp trùng hoặc không khác biệt đáng kể với nhau hoặc đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau cho các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau hoặc tương tự với nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ có thể được cấp cho đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ.
Trong trường hợp có nhiều đơn đăng ký cùng đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ và cùng có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất thì văn bằng bảo hộ chỉ có thể được cấp cho một đơn duy nhất trong số các đơn đó theo sự thoả thuận của tất cả những người nộp đơn; nếu không thoả thuận được thì tất cả các đơn đều bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ.
4. Nguyên tắc ưu tiên trong xác lập quyền sở hữu công nghiệp (Điều 91 Luật sở hữu trí tuệ)
Về nguyên tắc, quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng mà quyền được phát sinh trên cơ sở đăng ký chỉ được bảo hộ ở từng quốc gia, nơi quyền đó được đăng ký. Để bảo đảm việc công bố đơn đăng ký (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp) ở nước này không làm mất tính mới của đối tượng sở hữu công nghiệp khi sáng chế đó được nộp đơn đăng ký ở nước khác và để công dân của các nước có thời gian để chuẩn bị nộp đơn vào các nước khác nhau, các nước đã thoả thuận (trên cơ sở Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp) dành công dân của nhau quyền ưu tiên khi nộp đơn đăng ký quyền sở hữu công nghiệp (nộp đơn sau nhưng được coi là nộp trước, trên cơ sở một đơn đã nộp từ trước ở một trong các nước thành viên). Nguyên tắc này được quy định cụ thể trong Luật sở hữu trí tuệ như sau:
Người nộp đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu có quyền yêu cầu hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn đầu tiên đăng ký bảo hộ cùng một đối tượng nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
+ Đơn đầu tiên đã được nộp tại Việt Nam hoặc tại nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về quyền ưu tiên mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên hoặc có thoả thuận áp dụng quy định như vậy với Việt Nam;
+ Người nộp đơn là công dân Việt Nam, công dân của nước khác quy định tại đoạn trên đây cư trú hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam hoặc tại nước khác quy định tại đoạn này;
+ Trong đơn có nêu rõ yêu cầu được hưởng quyền ưu tiên và có nộp bản sao đơn đầu tiên có xác nhận của cơ quan đã nhận đơn đầu tiên;
+ Đơn được nộp trong thời hạn sau đây kể từ ngày nộp đơn đầu tiên: 12 tháng đối với đơn đăng ký sáng chế; 6 tháng đối với đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp hoặc đơn đăng ký nhãn hiệu.
Đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được hưởng quyền ưu tiên có ngày ưu tiên là ngày nộp đơn của đơn đầu tiên.
5. Khái quát về thủ tục xử lý đơn đăng ký xác lập quyền của Cục Sở hữu trí tuệ
Đơn đăng ký các đối tượng sở hữu công nghiệp được Cục Sở hữu trí tuệ nhận trực tiếp từ người nộp đơn (hoặc đại diện của người nộp đơn) hoặc nhận từ bưu điện. Khi tiếp nhận đơn, Cục Sở hữu trí tuệ kiểm tra sơ bộ hồ sơ đơn, nếu hồ sơ đơn có đủ các tài liệu tối thiểu theo quy định, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ đóng dấu nhận đơn vào Tờ khai đơn, trong đó có ghi số đơn và ngày nộp đơn.
Sau khi được tiếp nhận, đơn sẽ được thẩm định về mặt hình thức để khẳng định sự phù hợp hình thức của các tài liệu đơn với các quy định của pháp luật. Thời hạn thẩm định về mặt hình thức của đơn là 1 tháng kể từ ngày đơn được tiếp nhận. Nếu đơn có thiếu sót, Cục Sở hữu trí tuệ thông báo cho người nộp đơn và trong vòng 1 tháng, người nộp đơn phải có ý kiến hoặc sửa chữa, bổ sung thiếu sót của đơn.
Nếu đơn hợp lệ, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ ra Thông báo chấp nhận đơn hợp lệ và đơn này sẽ được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp (do Cục Sở hữu trí tuệ phát hành hàng tháng) trong tháng thứ hai kể từ ngày chấp nhận đơn hợp lệ (với một số ngoại lệ đối với việc công bố đơn đăng ký sáng chế, quy định cụ thể tại Điều 110 Luật sở hữu trí tuệ).
Tất cả các đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đã được công nhận hợp lệ (về mặt hình thức) đều được thẩm định về nội dung. Việc thẩm định nội dung đơn đăng ký sáng chế sẽ được thực hiện đối với những đơn được công nhận hợp lệ và có yêu cầu thẩm định nội dung (có nghĩa là các đơn không có yêu cầu này sẽ không được thẩm định nội dung). Yêu cầu thẩm định nội dung có thể được người nộp đơn hoặc bất kỳ người thứ ba có quan tâm nào nộp. Việc thẩm định nội dung sẽ không được tiến hành đối với đơn đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (theo quy định, sau khi chấp nhận đơn hợp lệ, đơn đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn sẽ được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp và sau thời hạn 3 tháng nếu không có phản đối xác đáng của người thứ ba, Giấy chứng nhận đăng ký sẽ được cấp).
Thời hạn thẩm định nội dung đơn sáng chế là 12 tháng, đơn kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý là 6 tháng tính từ ngày công bố đơn.
Căn cứ vào kết quả thẩm định đơn, nếu đối tượng đáp ứng điều kiện bảo hộ, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ cấp văn bằng bảo hộ, ghi nhận vào đăng bạ và công bố quyết định cấp văn bằng bảo hộ trên Công báo sở hữu công nghiệp.
6. Duy trì hiệu lực, gia hạn hiệu lực; Đình chỉ, huỷ bỏ hiệu lực; Sửa đổi văn bằng bảo hộ
6.1 Duy trì hiệu lực, gia hạn hiệu lực văn bằng bảo hộ (Điều 94 Luật Sở hữu trí tuệ)
Một điểm cần lưu ý là Bằng độc quyền sáng chế và Bằng độc quyền giải pháp hữu ích không tự động có hiệu lực hết 20 hoặc 10 năm kể từ ngày nộp đơn mà chủ sở hữu phải nộp lệ phí duy trì hiệu lực hằng năm. Nếu không thực hiện nghĩa vụ này, hiệu lực của Bằng độc quyền sẽ chấm dứt từ ngày bắt đầu năm hiệu lực đầu tiên mà lệ phí duy trì hiệu lực không được nộp (Điều 95 Luật sở hữu trí tuệ).
Để gia hạn hiệu lực Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, chủ văn bằng bảo hộ phải nộp lệ phí gia hạn hiệu lực theo quy định. Nếu không làm thủ tục này, Bằng độc quyền hoặc Giấy chứng nhận đăng ký liên quan cũng sẽ chấm dứt hiệu lực khi kết thúc kỳ hạn hiệu lực trước (Điều 95 Luật sở hữu trí tuệ).
6.2 Chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ (Điều 95 Luật Sở hữu trí tuệ)
Văn bằng bảo hộ bị chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau đây:
+ Chủ Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích không nộp lệ phí duy trì hiệu lực theo quy định;
+ Chủ Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu không gia hạn hiệu lực theo quy định;
+ Chủ văn bằng bảo hộ tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu công nghiệp (bằng một tuyên bố cụ thể và được Cục Sở hữu trí tuệ ghi nhận theo yêu cầu). Về bản chất, việc không nộp lệ phí duy trì hiệu lực hoặc gia hạn hiệu lực nêu tại các điểm trên đây cũng là hành vi từ bỏ quyền nhưng trong trường hợp đó, quyền bị tự động bị chấm dứt mà chủ sở hữu không có văn bản tuyên bố từ bỏ quyền như trường hợp nêu tại đoạn này;
+ Chủ văn bằng bảo hộ không còn tồn tại hoặc chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu không còn hoạt động kinh doanh mà không có người kế thừa hợp pháp. Cần lưu ý trong trường hợp này là mọi sự chuyển dịch, chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp (đối với các đối tượng mà quyền được xác lập trên cơ sở đăng ký) do có sự kiện pháp lý (chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, sáp nhập, mua lại, thừa kế hoặc chuyển nhượng v.v.) đều phải được đăng ký với Cục Sở hữu trí tuệ thì sự chuyển dịch, chuyển nhượng đó mới có hiệu lực. Kể từ ngày việc chuyển dịch, chuyển nhượng đó được đăng ký thì bên được chuyển dịch hoặc chuyển nhượng mới trở thành chủ sở hữu mới và có quyền bảo vệ đối tượng sở hữu công nghiệp liên quan (ví dụ khởi kiện). Một ví dụ điển hình cho trường hợp này là nếu một doanh nghiệp tư nhân sở hữu một nhãn hiệu đã được đăng ký, sau đó chủ doanh nghiệp làm thủ tục giải thể doanh nghiệp này để thành lập doanh nghiệp tư nhân khác nhưng không làm thủ tục chuyển dịch quyền đối với nhãn hiệu sang doanh nghiệp mới thì ngay sau khi doanh nghiệp cũ bị giải thể, quyền đối với nhãn hiệu đó sẽ bị chấm dứt (mặc dù trên thực tế ai cũng biết và có thể chứng minh cả doanh nghiệp cũ và doanh nghiệp mới đều do một cá nhân làm chủ). Ví dụ khác là trong trường hợp doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá, nếu doanh nghiệp nhà nước đó không xử lý các quyền sở hữu công nghiệp mà mình đang có (một trong những hình thức xử lý là tính quyền sở hữu trí tuệ vào khối tài sản doanh nghiệp để cổ phần hoá) thì ngay sau khi doanh nghiệp nhà nước chấm dứt hoạt động, quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp liên quan cũng sẽ chấm dứt mà không được coi là tự động chuyển sang cho doanh nghiệp cổ phần.
+ Nhãn hiệu không được chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép sử dụng trong thời hạn năm năm liên tục trước ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà không có lý do chính đáng, trừ trường hợp việc sử dụng được bắt đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất ba tháng tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực;
+ Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đối với nhãn hiệu tập thể không kiểm soát hoặc kiểm soát không có hiệu quả việc thực hiện quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể;
+ Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đối với nhãn hiệu chứng nhận vi phạm quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận hoặc không kiểm soát, kiểm soát không có hiệu quả việc thực hiện quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận;
+ Các điều kiện địa lý tạo nên danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý bị thay đổi làm mất danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm đó.
Trong trường hợp văn bằng bảo hộ bị chấm dứt hiệu lực, quyền đối với đối tượng sở hữu công nghiệp tương ứng không còn tiếp tục được bảo hộ tại thời điểm chấm dứt tương ứng. Điều đó có nghĩa là trước thời điểm bị chất dứt, quyền vẫn tồn tại và mọi hành vi sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp tương ứng mà không được sự cho phép của chủ sở hữu quyền đều bị coi là hành vi xâm phạm quyền (và chủ sở hữu có quyền kiện mặc dù tại thời điểm khởi kiện, quyền sở hữu công nghiệp đã không còn được bảo hộ).
6.3 Huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ (Điều 96 Luật Sở hữu trí tuệ)
Văn bằng bảo hộ bị hủy bỏ toàn bộ hiệu lực trong các trường hợp sau đây:
+ Người nộp đơn đăng ký không có quyền đăng ký và không được chuyển nhượng quyền đăng ký đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu. Những người có quyền đăng ký các đối tượng sở hữu công nghiệp được quy định tại các điều từ 86 đến 88 Luật Sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp văn bằng bảo hộ đã được cấp mà có tranh chấp và có căn cứ khẳng định rằng người đã được cấp văn bằng (chủ văn bằng) là người không có quyền đăng ký theo quy định thì văn bằng bảo hộ tương ứng sẽ bị huỷ bỏ hiệu lực (coi như không được cấp).
+ Đối tượng sở hữu công nghiệp không đáp ứng các điều kiện bảo hộ tại thời điểm cấp văn bằng bảo hộ. Vì một lý do khách quan nào đó (chẳng hạn trong quá trình xử lý đơn, Cục Sở hữu trí tuệ không có đủ thông tin để khẳng định một sáng chế là không có tính mới do đã bị bộc lộ từ trước), văn bằng bảo hộ vẫn được cấp. Tuy nhiên, nếu sau đó có chứng cứ chứng tỏ rằng sáng chế đó đã bị bộc lộ và do đó không còn tính mới (do đó không đáp ứng điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ) thì văn bằng bảo hộ sẽ bị huỷ bỏ.
Văn bằng bảo hộ có thể bị hủy bỏ một phần hiệu lực trong trường hợp phần đó không đáp ứng điều kiện bảo hộ.
Thời hiệu thực hiện quyền yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ là suốt thời hạn bảo hộ; đối với nhãn hiệu thì thời hiệu này là năm năm kể từ ngày cấp văn bằng bảo hộ, trừ trường hợp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu được cấp do sự không trung thực của người nộp đơn. Đây là điểm cần lưu ý đối với các cơ quan bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp vì trong nhiều trường hợp, khi bị kiện, bị đơn có thể tiến hành thủ tục yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ (thủ tục này được thực hiện tại Cục Sở hữu trí tuệ), tuy nhiên không phải mọi trường hợp đều có thể yêu cầu như vậy vì đã quá thời hiệu thực hiện quyền như nêu trên.
6.4 Sửa đổi văn bằng bảo hộ (Điều 97 Luật Sở hữu trí tuệ)
Chủ văn bằng bảo hộ có quyền yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ sửa đổi những thông tin sau đây trên văn bằng bảo hộ:
+ Thay đổi, sửa chữa thiếu sót liên quan đến tên và địa chỉ của tác giả, chủ văn bằng bảo hộ;
+ Sửa đổi bản mô tả tính chất, chất lượng đặc thù, khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý; sửa đổi quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể, quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận.
VI. NỘI DUNG QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1. Quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp (Điều 123 và 124 Luật sở hữu trí tuệ)
Chủ sở hữu có quyền quyết định việc sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ của mình. Luật sở hữu trí tuệ quy định việc người khác “sử dụng” đối tượng sở hữu công nghiệp mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu và không thuộc các trường hợp ngoại lệ (những trường hợp sử dụng mà không bị coi là xâm phạm quyền) sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền. Vì vậy, cần lưu ý trong quá trình xử lý tranh chấp, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, trước hết phải xem xét hành vi liên quan có phải là hành vi “sử dụng” theo quy định của pháp luật hay không. Vì nghĩa của từ “sử dụng” có thể rất rộng, do đó Luật sở hữu trí tuệ đã quy định rất chi tiết các hành vi được coi là hành vi “sử dụng” đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ, cụ thể như sau (Điều 124 Luật sở hữu trí tuệ):
1.1. “Sử dụng” sáng chế
Sử dụng sáng chế là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Sản xuất sản phẩm được bảo hộ;
+ Áp dụng quy trình được bảo hộ;
+ Khai thác công dụng của sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ;
+ Lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ;
+ Nhập khẩu sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ.
1.2. “Sử dụng” kiểu dáng công nghiệp
Sử dụng kiểu dáng công nghiệp là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Sản xuất sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ;
+ Lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ;
+ Nhập khẩu sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ.
1.3. “Sử dụng” thiết kế bố trí
Sử dụng thiết kế bố trí là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Sao chép thiết kế bố trí; sản xuất mạch tích hợp bán dẫn theo thiết kế bố trí được bảo hộ;
+ Bán, cho thuê, quảng cáo, chào hàng hoặc tàng trữ các bản sao thiết kế bố trí, mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí hoặc hàng hoá chứa mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí được bảo hộ;
+ Nhập khẩu bản sao thiết kế bố trí, mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí hoặc hàng hoá chứa mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí được bảo hộ.
1.4. “Sử dụng” bí mật kinh doanh
Sử dụng bí mật kinh doanh là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Áp dụng bí mật kinh doanh để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương mại hàng hoá;
+ Bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu sản phẩm được sản xuất do áp dụng bí mật kinh doanh.
Đối với bí mật kinh doanh, mục tiêu chủ yếu của pháp luật về bảo hộ đối tượng này là nhằm chống lại các hành vi bộc lộ trái phép. Do vậy, các hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh không chỉ là các hành vi sử dụng bí mật kinh doanh một cách trái phép mà bao gồm cả các hành vi bộc lộ trái phép (xem nội dung liên quan đến hành vi xâm phạm quyền quy định tại Điều 127 Luật Sở hữu trí tuệ).
1.5. “Sử dụng” nhãn hiệu
Sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;
Trong quy định này, từ “gắn” phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất với ý nghĩa là mọi phương thức đưa nhãn hiệu lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh v.v. Ví dụ, việc gắn nhãn hiệu có thể là in, dập, đúc trực tiếp nhãn hiệu lên sản phẩm (trên bánh xà phòng chẳng hạn), hoặc dán đề can mang nhãn hiệu lên sản phẩm (ví dụ, xe máy) v.v.
+ Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ;
Điểm lưu ý trong các hành vi sử dụng ở điểm này là mục đích của hành vi, đó là “để bán”. Hành vi tàng trữ hoặc quảng cáo nhưng không nhằm mục đích “để bán sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu sẽ không thuộc trường hợp quy định tại điểm này.
+ Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.
1.6. “Sử dụng” tên thương mại là việc thực hiện hành vi nhằm mục đích thương mại bằng cách dùng tên thương mại để xưng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hoá, bao bì hàng hoá và phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo.
1.7. “Sử dụng” chỉ dẫn địa lý
Sử dụng chỉ dẫn địa lý là việc thực hiện các hành vi sau đây:
+ Gắn chỉ dẫn địa lý được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;
+ Lưu thông, chào bán, quảng cáo nhằm để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ;
+ Nhập khẩu hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ.
2. Quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp (Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ)
Có thể nói, quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp là quyền quan trọng nhất của chủ sở hữu công nghiệp. Đó chính là việc chủ sở hữu ngăn cấm người thứ ba không được thực hiện các hành vi sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, khi xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (cũng đồng nghĩa với các hành vi mà chủ sở hữu công nghiệp có quyền ngăn cấm), không chỉ các hành vi sử dụng “trực tiếp” đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ như nêu ở phần quyền sử dụng trên đây mới bị coi là hành vi xâm phạm quyền mà còn bao gồm các hành vi khác (ví dụ sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ tương tự v.v.). Cũng cần lưu ý là pháp luật sở hữu trí tuệ cũng có quy định một số trường hợp “sử dụng” của người thứ ba nhưng chủ sở hữu không được ngăn cấm và hành vi đó không bị coi là hành vi xâm phạm quyền (về điểm này, xem phần về xác định hành vi xâm phạm).
3. Quyền định đoạt và chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp có quyền định đoạt (chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc từ bỏ) hoặc chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp liên quan cho người khác, với một số trường hợp ngoại lệ.
Khi chuyển nhượng quyền sở hữu, việc chuyển nhượng (đối với các đối tượng là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, nhãn hiệu) phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản và phải được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ. Bên nhận chuyển nhượng sẽ trở thành chủ sở hữu mới đối với đối tượng liên quan kể từ khi hợp đồng chuyển nhượng được đăng ký.
Một điểm lưu ý về chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp là quyền đối với tên thương mại không được chuyển nhượng, trừ trường hợp chuyển nhượng cùng với cơ sở sản xuất kinh doanh và hoạt động kinh doanh gắn liền với tên thương mại đó. Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý cũng không được chuyển nhượng. (Điều 139 Luật Sở hữu trí tuệ).
Chủ sở hữu công nghiệp cũng có thể cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp của mình theo hợp đồng. Theo quy định của pháp luật sở hữu công nghiệp, hợp đồng chuyển quyền sử dụng sẽ có hiệu lực giữa các bên ký kết theo sự thoả thuận, việc đăng ký hợp đồng chỉ nhằm mục đích tạo hiệu lực đối với bên thứ ba.
VII. XÁC ĐỊNH HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ, KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP VÀ NHÃN HIỆU
-
- Sáng chế
Khi giải quyết một vụ tranh chấp về xâm phạm quyền đối với sáng chế, cần xác định các yếu tố sau:
1.1 Xác định chủ thể quyền đối với sáng chế
Như đã đề cập, quyền đối với sáng chế chỉ phát sinh trên cơ sở quyết định cấp Văn bằng bảo hộ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Cục Sở hữu trí tuệ). Do vậy, chủ thể quyền đối với sáng chế chỉ có thể là người được cấp văn bằng bảo hộ (hoặc được chuyển nhượng văn bằng hoặc được chuyển giao quyền sử dụng nếu bên nhận chuyển giao được phép tiến hành các thủ tục bảo vệ quyền theo sự cho phép của chủ sở hữu). Do vậy, chứng cứ chứng minh chủ thể chính là văn bằng bảo hộ (Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích).
1.2 Xác định hành vi bị xem xét là xâm phạm quyền
Những yếu tố sau phải được chứng minh khi xác định một hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế:
1.2.1 Việc thực hiện một hành vi bị coi là hành vi xâm phạm quyền theo quy định của pháp luật
Về nguyên tắc, bất kỳ người thứ ba nào có hành vi sử dụng[1] sáng chế mà không được phép của chủ sở hữu đều bị coi là xâm phạm quyền, trừ các trường hợp sau đây (Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ):
+ Hành vi sử dụng sáng chế nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc mục đích phi thương mại hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân tích, nghiên cứu, giảng dạy, thử nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ tục xin phép sản xuất, nhập khẩu, lưu hành sản phẩm;
+ Hành vi lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được chủ sở hữu sáng chế hoặc người được phép của chủ sở hữu sáng chế đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài;
Khi sản phẩm được bảo hộ là sáng chế hoặc được sản xuất theo sáng chế được bảo hộ (trong trường hợp sáng chế là một quy trình) đã được đưa ra thị trường (bởi chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép – thường là dưới hình thức được chuyển quyền sử dụng), chủ sở hữu sáng chế sẽ không được can thiệp đến sản phẩm đó nữa. Bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền thực hiện các hành vi thương mại đối với những sản phẩm cụ thể này. Cần lưu ý là quyền của chủ sáng chế chỉ chấm dứt đối với những hàng hoá cụ thể được sản xuất và đưa ra thị trường theo sáng chế như nêu trên chứ không làm chấm dứt quyền đối với bản thân sáng chế đó.
+ Hành vi sử dụng sáng chế chỉ nhằm mục đích duy trì hoạt động của các phương tiện vận tải của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong lãnh thổ Việt Nam
+ Hành vi sử dụng sáng chế do người có quyền sử dụng trước thực hiện theo quy định tại Điều 134 của Luật Sở hữu trí tuệ
Theo quy định của Điều 134 Luật Sở hữu trí tuệ, một người được coi là có quyền sử dụng trước sáng chế trong trường hợp sau: trước ngày đơn đăng ký sáng chế (của người khác) được công bố mà người đó đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng sáng chế đồng nhất với sáng chế trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một cách độc lập thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng sáng chế trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu sáng chế được bảo hộ. Việc thực hiện quyền của người sử dụng trước sáng chế trong trường hợp này không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế.
Tuy nhiên, cần lưu ý là phạm vi quyền của người sử dụng trước chỉ được giới hạn ở phạm vi, khối lượng sử dụng hoặc chuẩn bị sử dụng (trước ngày công bố đơn như nêu ở trên) mà không được mở rộng. Phần mở rộng phạm vi, khối lượng đó nếu không được phép của chủ sở hữu sáng chế sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền.
+ Hành vi sử dụng sáng chế do người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thực hiện theo quy định tại Điều 145 và Điều 146 của Luật Sở hữu trí tuệ (tức là hành vi sử dụng sáng chế nhân danh Nhà nước hoặc sử dụng sáng chế theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền – hay còn gọi là bắt buộc chuyển quyền sử dụng)
Trong những hoàn cảnh nhất định, nhằm mục đích bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, lợi ích của người tiêu dùng v.v., Nhà nước có thể nhân danh mình sử dụng sáng chế hoặc cho phép người khác sử dụng sáng chế mà không cần sự đồng ý của chủ sở hữu (với những điều kiện chặt chẽ được áp dụng cho việc ban hành các quyết định như vậy theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ). Trong trường hợp đó, hành vi sử dụng của Nhà nước và của người được Nhà nước cho phép sử dụng không bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế.
1.2.2 Có yếu tố xâm phạm quyền sáng chế trong đối tượng bị xem xét
Yếu tố xâm phạm quyền đối với sáng chế có thể thuộc một trong các dạng sau đây (Điều 8 Nghị định 105/2006/NĐ-CP):
+ Sản phẩm hoặc bộ phận (phần) sản phẩm trùng hoặc tương đương với sản phẩm hoặc bộ phận (phần) của sản phẩm thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế;
+ Quy trình trùng hoặc tương đương với quy trình thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế;
+ Sản phẩm hoặc bộ phận (phần) của sản phẩm được sản xuất theo quy trình trùng hoặc tương đương với quy trình thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế;
Đối với các quy trình được bảo hộ, chỉ có việc làm ra những sản phẩm thu được trực tiếp từ quy trình được bảo hộ mới là hành vi bị coi là xâm phạm quyền.
Để khẳng định sự đồng nhất (trùng) giữa sản phẩm xâm phạm với sản phẩm được bảo hộ, hoặc giữa quy trình xâm phạm với quy trình được bảo hộ, cần phải so sánh tất cả các đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm hoặc quy trình đó với sản phẩm hoặc quy trình được bảo hộ và chỉ trong trường hợp tất cả các đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm hoặc quy trình xâm phạm đều xuất hiện trong tập hợp các đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm hoặc quy trình được bảo hộ thì mới được kết luận như trên. Khi tiến hành việc so sánh cần phải căn cứ vào Bản mô tả sáng chế và Yêu cầu bảo hộ sáng chế đính kèm Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, trong đó đã xác định các đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm hoặc quy trình được bảo hộ.
Trong một số trường hợp, nguyên đơn rất khó (và gần như là không thể) chứng minh được rằng quy trình mà bị đơn đang sử dụng chính là quy trình được bảo hộ sáng chế (vì không thể tiếp cận được cơ sở của bị đơn) . Vì vậy, khoản 4 Điều 203 Luật sở hữu trí tuệ đã quy định chuyển nghĩa vụ chứng minh không xâm phạm quyền cho bị đơn. Cụ thể như sau:
“Trong vụ kiện về xâm phạm quyền đối với sáng chế là một quy trình sản xuất sản phẩm, bị đơn phải chứng minh sản phẩm của mình được sản xuất theo một quy trình khác với quy trình được bảo hộ trong các trường hợp sau đây:
. sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ là sản phẩm mới;
. sản phẩm được sản xuất theo quy trình bảo hộ không phải là sản phẩm mới nhưng chủ sở hữu sáng chế cho rằng sản phẩm do bị đơn sản xuất là theo quy trình được bảo hộ và mặc dù đã sử dụng các biện pháp thích hợp nhưng vẫn không thể xác định được quy trình do bị đơn sử dụng.”
Như vậy, không phải trong mọi trường hợp xâm phạm quyền đối với sáng chế là quy trình thì nghĩa vụ chứng minh không xâm phạm thuộc về bị đơn mà chỉ trong những trường hợp nhất định nêu trên, còn trong các trường hợp khác, nguyên đơn vẫn có nghĩa vụ chứng minh hành vi xâm phạm quyền của bị đơn.
1.2.3 Thời điểm thực hiện hành vi nằm trong thời hạn bảo hộ sáng chế
Quyền đối với sáng chế chỉ có hiệu lực từ ngày cấp văn bằng bảo hộ. Do vậy, chỉ những hành vi nào được thực hiện sau khi văn bằng bảo hộ được cấp thì mới bị coi là xâm phạm quyền đối với sáng chế, trừ một trường hợp duy nhất được coi là hành vi xâm phạm quyền tạm thời chủ sở hữu có thể xảy ra trước khi văn bằng bảo hộ được cấp (Điều 131 Luật Sở hữu trí tuệ).
Theo Điều 131 Luật Sở hữu trí tuệ, trường hợp người nộp đơn đăng ký sáng chế biết rằng sáng chế đang được người khác sử dụng nhằm mục đích thương mại và người đó không có quyền sử dụng trước thì người nộp đơn có quyền thông báo bằng văn bản cho người sử dụng về việc mình đã nộp đơn đăng ký, trong đó chỉ rõ ngày nộp đơn và ngày công bố đơn trên Công báo sở hữu công nghiệp để người đó chấm dứt việc sử dụng hoặc tiếp tục sử dụng. Trong trường hợp đã được thông báo như vậy mà người được thông báo vẫn tiếp tục sử dụng sáng chế thì khi Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích được cấp, chủ sở hữu sáng chế có quyền yêu cầu người đã sử dụng sáng chế phải trả một khoản tiền đền bù tương đương với giá chuyển giao quyền sử dụng sáng chế đó trong phạm vi và thời hạn sử dụng tương ứng.
Trong trường hợp sử dụng sáng chế như trên mà không trả tiền đền bù sau khi có yêu cầu của chủ sở hữu thì bị coi là hành vi xâm phạm sáng chế (Khoản 2 Điều 126 Luật Sở hữu trí tuệ).
Khi xem xét vấn đề này, cần lưu ý một điểm là có thể tại thời điểm khởi kiện, quyền đối với sáng chế đã chấm dứt (do bị đình chỉ hoặc hết hạn bảo hộ) nhưng hành vi bị coi là xâm phạm quyền xảy ra vào thời điểm văn bằng bảo hộ đang còn hiệu lực thì việc khởi kiện vẫn được coi là hợp lệ (với điều kiện việc khởi kiện được thực hiện đúng thời hiệu). Lưu ý này cũng áp dụng cho mọi đối tượng sở hữu công nghiệp khác.
1.2.4 Hành vi xâm phạm xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam
Quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền đối với sáng chế nói riêng mang tính lãnh thổ. Bằng độc quyền sáng chế hoặc bằng độc quyền giải pháp hữu ích do Cục Sở hữu trí tuệ cấp chỉ có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam. Do vậy, một hành vi chỉ bị coi là xâm phạm quyền đối với sáng chế nếu xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam (với lưu ý quy định tại khoản 4 Điều 5 Nghị định 105/2006/NĐ-CP là một hành vi cũng có thể bị coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam – tuy nhiên, hành vi này chủ yếu liên quan đến nhãn hiệu, quyền tác giả).
-
- Kiểu dáng công nghiệp
Tương tự như sáng chế, khi giải quyết tranh chấp về xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp, phải xác định những nội dung sau:
2.1 Xác định chủ thể quyền đối với kiểu dáng công nghiệp
Cách xác định chủ thể quyền đối với kiểu dáng công nghiệp tương tự như đối với sáng chế.
2.2 Xác định hành vi bị xem xét là xâm phạm quyền
Khi xác định hành vi xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp, phải chứng minh những điểm sau đây:
2.2.1 Việc thực hiện một hành vi bị coi là hành vi xâm phạm quyền theo quy định của pháp luật
Giống như sáng chế, bất kỳ người thứ ba nào có hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp không khác biệt cơ bản với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu đều bị coi là xâm phạm quyền, trừ các trường hợp sau đây (Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ):
+ Hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc mục đích phi thương mại hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân tích, nghiên cứu, giảng dạy, thử nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ tục xin phép sản xuất, nhập khẩu, lưu hành sản phẩm;
+ Hành vi lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp hoặc người được phép của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài;
Khi sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp được đưa ra thị trường (bởi chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép – thường là dưới hình thức được chuyển quyền sử dụng), chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp sẽ không được can thiệp đến sản phẩm đó nữa. Bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền thực hiện các hành vi thương mại đối với những sản phẩm cụ thể này.
+ Hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp chỉ nhằm mục đích duy trì hoạt động của các phương tiện vận tải của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong lãnh thổ Việt Nam;
+ Hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp do người có quyền sử dụng trước thực hiện theo quy định tại Điều 134 của Luật Sở hữu trí tuệ;
Theo quy định của Điều 134 Luật Sở hữu trí tuệ, một người được coi là có quyền sử dụng trước kiểu dáng công nghiệp trong trường hợp trước ngày đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp (của người khác) được công bố mà người đó đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng kiểu dáng công nghiệp đồng nhất với kiểu dáng công nghiệp trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một cách độc lập thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ. Việc thực hiện quyền của người sử dụng trước kiểu dáng công nghiệp không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp đó.
Tuy nhiên, cần lưu ý là phạm vi quyền của người sử dụng trước chỉ được giới hạn ở phạm vi, khối lượng sử dụng hoặc chuẩn bị sử dụng mà không được mở rộng. Phần mở rộng phạm vi, khối lượng đó nếu không được phép của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền.
2.2.2 Có yếu tố xâm phạm quyền trong đối tượng bị xem xét
Yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp là sản phẩm hoặc phần của sản phẩm mà hình dáng bên ngoài không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ, và có thể thuộc một trong các dạng sau đây (Điều 10 Nghị định 105/2006/NĐ-CP):
+ Trên sản phẩm hoặc phần sản phẩm bị xem xét, kể cả trường hợp đã được cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, có tập hợp các đặc điểm tạo dáng hợp thành một tổng thể là bản sao hoặc về bản chất là bản sao (gần như không thể phân biệt được sự khác biệt) của kiểu dáng công nghiệp của chủ sở hữu khác đã được bảo hộ mà không được sự đồng ý của người đó;
+ Trên sản phẩm hoặc phần sản phẩm bị xem xét có tập hợp các đặc điểm tạo dáng hợp thành một tổng thể là bản sao hoặc về bản chất là bản sao của kiểu dáng công nghiệp của ít nhất một sản phẩm trong bộ sản phẩm được bảo hộ của người khác.
Để khẳng định một sản phẩm có yếu tố xâm phạm đối với kiểu dáng công nghiệp hay không, cần phải so sánh tất cả các đặc điểm tạo dáng (đường nét, hình khối, màu sắc) của sản phẩm, bộ phận sản phẩm với các đặc điểm tạo dáng của kiểu dáng công nghiệp được xác định tại Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp. Chỉ khi nào tất cả các đặc điểm của toàn bộ sản phẩm hoặc của một phần sản phẩm đều trùng với các đặc điểm tạo dáng nêu trong Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp thì mới khẳng định sản phẩm đó có yếu tố xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp.
Ví dụ minh hoạ về một số vụ xâm phạm kiểu dáng công nghiệp:
Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ | Kiểu dáng công nghiệp xâm phạm |
2.2.3. Hành vi xâm phạm xảy ra trong thời hạn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
Cách xác định yếu tố này tương tự như đối với sáng chế.
2.2.4 Hành vi xâm phạm xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam
Cách xác định yếu tố này tương tự như đối với sáng chế.
3. Nhãn hiệu
3.1. Xác định chủ sở hữu nhãn hiệu
Về cơ bản việc xác định chủ sở hữu nhãn hiệu tương tự như đối với sáng chế hoặc kiểu dáng công nghiệp, tuy nhiên có một số điểm khác biệt được trình bày tại mục 3.2.2 sau đây.
3.2. Xác định hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu
Để xác định hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, 5 yếu tố cần và đủ sau đây cần phải được xem xét:
Một là, hành vi sử dụng nhãn hiệu được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam
Hai là, đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi nhãn hiệu đang được bảo hộ ở Việt Nam
Ba là, việc sử dụng nhãn hiệu không được chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép
Bốn là, hành vi sử dụng nhãn hiệu không thuộc trường hợp không bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, và
Năm là, hành vi sử dụng nhãn hiệu thuộc một trong các trường hợp bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật.
Sau đây là cách xác định từng yếu tố nêu trên.
3.2.1. Hành vi sử dụng nhãn hiệu được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam
Về cơ bản, việc xác định yếu tố này giống với trường hợp sáng chế và kiểu dáng công nghiệp. Tuy nhiên, có một trường hợp đặc biệt là hành vi chào bán hàng hoá hoặc bán hàng hoá mang nhãn hiệu trên mạng internet. Hành vi đưa thông tin (quảng cáo) lên mạng có thể được thực hiện ở nước ngoài nhưng nhằm vào thị trường Việt Nam (khách hàng mục tiêu ở Việt Nam) thì hành vi này cũng có thể được coi là xảy ra tại Việt Nam và bị coi là hành vi xâm phạm quyền.
3.2.2. Nhãn hiệu đang được bảo hộ ở Việt Nam khi thực hiện hành vi sử dụng
Việc xác định nhãn hiệu đang được bảo hộ ở Việt Nam có một số điểm khác so với sáng chế và kiểu dáng công nghiệp do căn cứ phát sinh quyền của đối tượng này. Quyền đối với nhãn hiệu được bảo hộ ở Việt Nam có thể phát sinh trên 3 cơ sở sau (và tương ứng với các cơ sở này là chứng cứ để chứng minh quyền đang được bảo hộ tại Việt Nam):
+ Thứ nhất là quyết định cấp văn bằng bảo hộ (Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu) của Cục Sở hữu trí tuệ). Trong trường hợp này, việc chứng minh nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam sẽ dựa trên Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu do Cục Sở hữu trí tuệ cấp.
+ Thứ hai là quyết định công nhận bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế tại Việt Nam (do Cục Sở hữu trí tuệ ban hành và chỉ áp dụng với các chủ thể nước ngoài đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam thông qua hệ thống Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu)
Một điểm cần lưu ý khi xác định chủ thể quyền đối nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam trong trường hợp này là: quyết định công nhận bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế tại Việt Nam chỉ được cấp sau khi Luật sở hữu trí tuệ có hiệu lực (1.7.2006). Đối với các nhãn hiệu đăng ký quốc tế có hiệu lực tại Việt Nam theo pháp luật trước ngày 1.7.2006, pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam không có quy định về việc ra quyết định như vậy. Trong những trường hợp đó (và kể cả trong trường hợp các trường hợp nhãn hiệu đăng ký quốc tế có hiệu lực theo Luật sở hữu trí tuệ), thay vì việc nộp quyết định công nhận bảo hộ nhãn hiệu do Cục Sở hữu trí tuệ cấp, chủ thể quyền có thể nộp cho toà án giấy xác nhận của Cục Sở hữu trí tuệ hoặc giấy xác nhận của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property Organization) về việc nhãn hiệu liên quan đã được đăng ký và bảo hộ tại Việt Nam. Các giấy tờ này có giá trị như nhau trong việc chứng minh quyền sở hữu đối với nhãn hiệu. Tóm lại, trong trường hợp này, chứng cứ chứng minh quyền đối với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam có thể là: quyết định công nhận bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam hoặc xác nhận nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam (do Cục Sở hữu trí tuệ cấp) hoặc xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế đang được bảo hộ tại Việt Nam (do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới – WIPO cấp).
+ Thứ ba là trên cơ sở sử dụng (đối với nhãn hiệu nổi tiếng)
Theo nguyên tắc chung, quyền sở hữu đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Cục Sở hữu trí tuệ). Tuy nhiên, quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng chứ không phải trên cơ sở đăng ký. Một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng thì mặc dù không đăng ký nhưng chủ sở hữu vẫn có quyền chống lại người khác thực hiện các hành vi bị coi là xâm phạm quyền. Thay vì chứng minh nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam bằng cách nộp cho toà án Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc quyết định công nhận nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam hay các chứng cứ khác (như được nêu tại 2 trường hợp trên đây), chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ nộp các chứng cứ chứng minh nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng.
Để được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng, trước hết phải chứng minh nhãn hiệu đó được người tiêu dùng biết đến một cách rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam (Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ). Các tiêu chí được sử dụng để xem xét một nhãn hiệu nổi tiếng hay không được quy định tại Điều 75 Luật sở hữu trí tuệ. Một điều cần lưu ý trong khi xem xét để công nhận một nhãn hiệu nổi tiếng là: các tiêu chí được quy định tại Điều 75 Luật sở hữu trí tuệ chỉ mang tính ví dụ và không chỉ giới hạn ở các tiêu chí đó. Chủ sở hữu nhãn hiệu có thể sử dụng các tiêu chí khác để chứng minh nhãn hiệu của mình là nổi tiếng. Hơn nữa, một nhãn hiệu không phải đáp ứng tất cả các tiêu chí quy định tại Điều 75 mới được coi là nổi tiếng. Tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ cần thoả mãn một tiêu chí trong số đó cũng có thể coi một nhãn hiệu là nổi tiếng.
Việc công nhận một nhãn hiệu nổi tiếng chỉ được thực hiện cho từng mục đích và vụ việc cụ thể và không phải sau khi được công nhận nhãn hiệu nổi tiếng (để xử lý một vụ kiện cụ thể), chủ sở hữu nhãn hiệu có thể sử dụng căn cứ này cho các mục đích khác, vụ việc khác. Ví dụ, chủ sở hữu nhãn hiệu Coca Cola (đã đăng ký bảo hộ tại Việt Nam cho sản phẩm đồ uống nhẹ) khởi kiện một doanh nghiệp có hành vi sử dụng nhãn hiệu Coca Cola cho sản phẩm bút bi (Coca Cola không đăng ký bảo hộ cho sản phẩm này) với lập luận rằng nhãn hiệu Coca Cola là nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam, do đó họ có quyền cấm hành vi sử dụng này. Để chứng minh mình có quyền kiện hành vi nêu trên, Coca Cola phải chứng minh (với toà án) nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng. Trên cơ sở xem xét các chứng cứ được cung cấp, nếu toà án chấp nhận nhãn hiệu này là nhãn hiệu nổi tiếng thì toà án sẽ quyết định hành vi bị kiện có phải là hành vi xâm phạm quyền của Coca Cola hay không. Giả sử toà án có phán quyết thuận (tức là công nhận nhãn hiệu Coca Cola là nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam và trên cơ sở đó quyết định hành vi sử dụng nhãn hiệu Coca Cola cho sản phẩm bút bi là hành vi xâm phạm quyền, thì việc công nhận này của toà án không có giá trị đương nhiên để sau đó Coca Cola có thể kiện người khác xâm phạm quyền của mình với lý do sử dụng cho sản phẩm nước chấm. Trong vụ kiện tiếp theo này, chủ sở hữu nhãn hiệu Coca Cola vẫn phải chứng minh nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng và sau đó chứng minh hành vi sử dụng nhãn hiệu của mình cho sản phẩm nước chấm của bị đơn là hành vi xâm phạm quyền. Chứng cứ về việc thành công trong vụ kiện trước (bút bi) có thể là một chứng cứ có sức nặng trong việc chứng minh nhãn hiệu là nổi tiếng trong vụ việc sau (nước chấm).
Một điểm cần lưu ý khi xác định nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam là quyền sở hữu đối với nhãn hiệu có thể được chuyển nhượng (tương tự như các đối tượng sở hữu trí tuệ khác, trừ chỉ dẫn địa lý không được chuyển nhượng và tên thương mại được chuyển nhượng với những điều kiện nhất định). Do vậy, chủ sở hữu nhãn hiệu có thể là một người khác chứ không phải là người được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu ban đầu (ghi ở trang đầu của Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu). Tuy nhiên, việc chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu chỉ có hiệu lực khi được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ. Toà án có thể kiểm tra thông tin về chủ sở hữu nhãn hiệu hiện tại trong Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu được nộp cho Toà.
Khi xác định tư cách khởi kiện, còn một căn cứ khác, đó là giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng li-xăng (hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu). Chủ sở hữu nhãn hiệu có thể cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu thông qua hợp đồng và trong hợp đồng đó có thoả thuận bên sử dụng có quyền khởi kiện hành vi xâm phạm quyền thì khi khởi kiện, bằng việc nộp giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng li-xăng, bên nhận li-xăng đã chứng minh được tư cách khởi kiện của mình.
3.2.3 Việc sử dụng nhãn hiệu không được chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép
Theo quy định của pháp luật, việc cho phép sử dụng nhãn hiệu phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản (Điều 141 Luật Sở hữu trí tuệ). Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng này có hiệu lực (nội dung, thời điểm có hiệu lực v.v) theo sự thoả thuận của hai bên. Việc đăng ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng không phải là một điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực giữa hai bên với nhau (có nghĩa là đối với chủ sở hữu nhãn hiệu, việc ký kết hợp đồng đã bảo đảm sự sử dụng nhãn hiệu hợp pháp của bên được chuyển giao quyền sử dụng) mà việc đăng ký hợp đồng chỉ có ý nghĩa là để có hiệu lực đối với bên thứ ba. Tóm lại, nếu không có sự thoả thuận bằng hợp đồng thì việc sử dụng nhãn hiệu của bên thứ ba bị coi là sử dụng mà không được sự cho phép của chủ sở hữu nhãn hiệu.
3.2.4. Hành vi sử dụng nhãn hiệu không thuộc trường hợp không bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu
Theo quy định tại Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu nhãn hiệu không được ngăn cấm người khác thực hiện các hành vi sau đây (nói cách khác, đây là những hành vi không bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu):
+ Lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài.
Điều này có nghĩa là sau khi sản phẩm mang nhãn hiệu đã được đưa ra thị trường một cách hợp pháp (bởi chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép thông qua hợp đồng chuyển quyền sử dụng), bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền tiến hành các hoạt động thương mại (mua bán) sản phẩm đó mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu nhãn hiệu và không bị coi là hành vi xâm phạm quyền.
+ Sử dụng một cách trung thực tên người, dấu hiệu mô tả chủng loại, số lượng, chất lượng, công dụng, giá trị, nguồn gốc địa lý và các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ
Có thể đưa ra một số ví dụ về trường hợp này như sau:
Ví dụ thứ nhất liên quan đến sử dụng một cách trung thực tên người:
Nhãn hiệu sử dụng cho sản phầm cà phê đã được đăng ký bảo hộ. Một người thứ ba có tên là TRUNG NGUYÊN (Trung là họ và Nguyên là tên riêng) và mở một cơ sở rang xay, đóng gói cà phê và sử dụng trên bao bì sản phẩm dòng chữ “RANG XAY VÀ ĐÓNG GỌI TẠI CƠ SỞ TRUNG NGUYÊN, 36 PHỐ HUẾ, HÀ NỘI” (dòng chữ này được ghi một cách rõ ràng bên cạnh nhiều yếu tố trang trí khác cho bao bì sản phẩm, ví dụ hình tách cà phê, các khối mầu trang trí cho từng góc cạnh của gói cà phê v.v., nhưng không được trình bày như cách trình bày của nhãn hiệu TRUNG NGUYÊN và hình được bảo hộ nêu trên đây). Trong trường hợp này, có thể khẳng định việc sử dụng dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc thương mại của sản phẩm, trong đó có chứa cụm từ TRUNG NGUYÊN của cơ sở Trung Nguyên, 36 Phố Huế, Hà Nội là một hành vi sử dụng trung thực tên người (của chủ cơ sở) và do vậy không bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu đã được bảo hộ nêu trên.
Ví dụ thứ hai liên quan đến hành vi sử dụng trung thực dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của sản phẩm:
Nhãn hiệu “BẾN TRE” sử dụng cho sản phẩm kẹo dừa đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá số 2501 ngày 30.3.1991 (hiện vẫn đang còn hiệu lực, chủ sở hữu nhãn hiệu là Công ty sản xuất kinh doanh tổng hợp Đông Á, 30B Nguyễn Văn Tư, phường 7, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre).
Trên thực tế, Bến Tre là nơi có truyền thống sản xuất kẹo dừa và có thể nói kẹo dừa là một loại đặc sản của tỉnh Bến Tre. Điều đó đã dẫn tới việc tất cả các cơ sở sản xuất kẹo dừa ở đây đều sử dụng chỉ dẫn “ĐẶC SẢN BẾN TRE” trên bao bì sản phẩm của mình. Thông thường, dấu hiệu như vậy bị có thể bị coi là tương tự gây nhẫm lẫn với nhãn hiệu “BẾN TRE” đang được bảo hộ nếu không thuộc trường hợp ngoại lệ.
Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, nhu cầu sử dụng dấu hiệu “Đặc sản Bến Tre” là có thực và điều đó cũng đúng sự thực (kẹo dừa là một loại đặc sản của tỉnh Bến Tre”). Do đó, hành vi sử dụng dấu hiệu này sẽ không bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu BẾN TRE, chừng nào cách sử dụng dấu hiệu này thể hiện ý định trung thực (tính trung thực được giải thích theo hướng việc sử dụng chỉ dẫn này chỉ nhằm mục đích thông tin cho người tiêu dùng rằng đó là một loại đặc sản được sản xuất tại Bến Tre) . Có thể đưa ra cách sử dụng không trung thực (và bị coi là xâm phạm quyền) để có thể dễ nhận biết hơn về cách sử dụng trung thực đối với trường hợp này. Ví dụ, một doanh nghiệp ở Bến Tre sản xuất kẹo dừa mang nhãn hiệu “Hùng Anh”. Trên bao bì sản phẩm, ngoài việc trình bày nhãn hiệu “Hùng Anh”, dòng chữ “đặc sản BẾN TRE” được trình bày với chữ “BẾN TRE” nổi bật, còn chữ “đặc sản” chỉ ghi cỡ chữ nhỏ và người tiêu dùng khi mua hàng sẽ nhìn nhận chữ “BẾN TRE” này như một dấu hiệu đóng vai trò là nhãn hiệu và họ có thể bị nhầm rằng sản phẩm này là của Công ty sản xuất kinh doanh tổng hợp Đông Á (là chủ sở hữu nhãn hiệu BẾN TRE). Trường hợp này có thể được khẳng định là sử dụng chỉ dẫn về nguồn gốc sản phẩm (đặc sản Bến Tre) không trung thực, do vậy có thể bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu BẾN TRE.
Một ví dụ nữa về hành vi sử dụng trung thực chỉ dẫn nguồn gốc địa lý liên quan đến nhãn hiệu “Hà Tiên”. “Hà Tiên” đã được đăng ký bảo hộ cho sản phẩm xi-măng. Một doanh nghiệp khác cũng sản xuất xi-măng và sử dụng nguyên liệu clinke lấy từ vùng Hà Tiên. Trên bao bì sản phẩm của doanh nghiệp này có ghi dòng chữ “sản xuất từ nguồn clinke HÀ TIÊN” (chữ “HÀ TIÊN” nổi bật hẳn so với các chữ còn lại và người tiêu dùng nếu không nhìn thật kỹ sẽ chỉ thấy chữ HÀ TIÊN và có thể lầm tưởng rằng đây là sản phẩm xi –măng mang nhãn hiệu HÀ TIÊN). Trong trường hợp này, có thể khẳng định đây không phải là hành vi sử dụng trung thực dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của sản phẩm. Nếu thông tin trên bao bì đủ để người tiêu dùng hiểu rõ đó là “SẢN XUẤT TỪ NGUỒN CLINKE HÀ TIÊN” thì cách sử dụng như vậy sẽ thuộc trường hợp sử dụng trung thực dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của sản phẩm và do đó không bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu “Hà Tiên”.
3.2.5. Hành vi sử dụng thuộc một trong các trường hợp bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật (quy định tại Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ)
Theo Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ, các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Khi xác định một hành vi như vậy, có hai yếu tố phải xác định là dấu hiệu bị nghi ngờ xâm phạm và hàng hoá hoặc dịch vụ mang dấu hiệu đó.
– Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó
Đây là trường hợp dễ xác định nhất trong số các hành vi xâm phạm nhãn hiệu, ví dụ với nhãn hiệu nêu trên được bảo hộ cho sản phẩm là cà phê. Một doanh nghiệp khác sản xuất cà phê đóng thành gói sau đó dán nhãn hiệu lên sản phẩm của mình. Đây chính là hành vi “sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó”.
– Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng như vậy có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc của hàng hoá, dịch vụ.
Vẫn với ví dụ nhãn hiệu cà phê được bảo hộ bên trên. Một doanh nghiệp mua cacao từ doanh nghiệp khác, sau đó về đóng thành những gói nhỏ rồi dán nhãn hiệu lên bao bì sản phẩm cacao. Trong trường hợp này, dấu hiệu được sử dụng được xác định là trùng với nhãn hiệu được bảo hộ. Hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ xâm phạm không phải là hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu bị xâm phạm, mà là các hàng hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên quan (cà phê và cacao được coi là hai hàng hoá tương tự nhau), nếu việc sử dụng như vậy có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ. Như vậy, ở đây cần phải xác định hai yếu tố, thứ nhất là sự tương tự hoặc liên quan của các hàng hoá,dịch vụ và thứ hai là khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ.
– Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ.
Với trường hợp Trung Nguyên, dấu hiệu tương tự có thể là chữ “TRƯNG NGUYÊN” hoặc “TRUNG NGUYỄN” sử dụng cho sản phẩm cà phê.
– Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ.
Ví dụ cụ thể là sử dụng dấu hiệu “TRƯNG NGUYÊN” hoặc “TRUNG NGUYỄN” cho sản phẩm cacao.
Có thể tóm tắt các trường hợp bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu được bảo hộ bằng một ví dụ khác như sau:
Nhãn hiệu được bảo hộ:
Sản phẩm mang nhãn hiệu được đăng ký: Bột giặt
Các trường hợp bị coi là xâm phạm quyền (xét riêng về mặt nhãn hiệu và sản phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu) | 1. Sử dụng nhãn hiệu trùng cho sản phẩm trùng
Sản phẩm: Bột giặt |
2. Sử dụng nhãn hiệu trùng cho sản phẩm tương tự
|
3. Sử dụng nhãn hiệu tương tự cho sản phẩm trùng
Sản phẩm: Bột giặt |
4. Sử dụng nhãn hiệu tương tự cho sản phẩm tương tự (dấu hiệu này được trình bày giống như cách trình bày nhãn hiệu OMO, chữ s và t để cỡ chữ nhỏ và mờ, người tiêu dùng chỉ nhìn thấy các chữ OMO ở giữa
SỐMỘt Sản phẩm: Xà phòng |
3.2.5.1 Xác định dấu hiệu bị nghi ngờ là xâm phạm
Yếu tố (dấu hiệu) xâm phạm nhãn hiệu có thể thuộc một trong hai dạng sau: (i) dấu hiệu đóng vai trò nhãn hiệu và (ii) chỉ dẫn gây liên tưởng đến nhãn hiệu hoặc nguồn gốc hàng hoá.
Yếu tố xâm phạm dạng dấu hiệu là mọi dấu hiệu có thể dùng làm nhãn hiệu (chữ, chữ số, hình ảnh, biểu tượng, ký hiệu) được gắn lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, quảng cáo trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được bảo hộ.
Yếu tố xâm phạm dạng chỉ dẫn là mọi thông tin trình bày trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, vật quảng cáo (lời dẫn, lời chú, ký hiệu) làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn về nguồn gốc, mối liên hệ của hàng hoá hoặc dịch vụ với hàng hoá hoặc dịch vụ có nhãn hiệu được bảo hộ.
Để khẳng định một dấu hiệu hoặc chỉ dẫn có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hay không, cần phải so sánh dấu hiệu, chỉ dẫn đó với nhãn hiệu được bảo hộ và so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu hoặc chỉ dẫn đó với sản phẩm hoặc dịch vụ nằm trong danh mục sản phẩm, dịch vụ trình bày trong Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc Đăng ký quốc tế nhãn hiệu (được trình bày tại phần 3.5.2 sau đây). Cách thức xác định các dấu hiệu như sau:
3.2.5.1.a Một dấu hiệu bị coi là trùng với một nhãn hiệu được bảo hộ nếu dấu hiệu đó có cấu tạo, cách trình bày, màu sắc, cách phát âm (đối với dấu hiệu là chữ), ý nghĩa hoàn toàn trùng với cấu tạo, cách trình bày, màu sắc, cách phát âm, ý nghĩa của nhãn hiệu được bảo hộ.
3.2.5.1.b Một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được bảo hộ nếu dấu hiệu đó có một số đặc điểm về cấu tạo, cách trình bày, cách phát âm (đối với dấu hiệu chữ), màu sắc, ý nghĩa hoàn toàn trùng hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt được với nhãn hiệu được bảo hộ.
Các trường hợp dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được bảo hộ có thể được phân nhóm như sau:
– Dấu hiệu bị coi là có cùng cấu trúc với nhãn hiệu được bảo hộ nếu trong cấu trúc của dấu hiệu đó có chứa toàn bộ hoặc phần chủ yếu[2] của nhãn hiệu được bảo hộ và toàn bộ hoặc phần chủ yếu của nhãn hiệu được bảo hộ bị chứa trong cấu trúc đó lại tạo thành phần chủ yếu của dấu hiệu. Điều này có nghĩa là dấu hiệu được tạo thành bởi việc thêm những thành phần mới thứ yếu vào nhãn hiệu được bảo hộ hoặc vào thành phần chủ yếu của nhãn hiệu được bảo hộ, hoặc bằng cách loại bỏ thành phần thứ yếu khỏi nhãn hiệu được bảo hộ, hoặc thay đổi thành phần thứ yếu của nhãn hiệu được bảo hộ.
Ví dụ đối với dấu hiệu chữ:
Nhãn hiệu được bảo hộ | Dấu hiệu (nhãn hiệu) bị coi là tương tự tới mức gây nhầm lẫn | Phân tích |
SẦM SƠN | SAM SON | dấu hiệu SAM SON là các ký tự được bỏ dấu đi của SẦM SƠN do đó về cấu trúc số lượng các ký tự giống nhau và thứ tự các ký tự cũng giống nhau |
PHÚ MỸ | TÂN PHÚ MỸ | phần chữ PHÚ MỸ được coi là thành phần chủ yếu của nhãn hiệu được bảo hộ, do đó việc thêm thành phần TÂN (Tân nghĩa là mới- PHÚ MỸ MỚI) không làm thay đổi bản chất của nhãn hiệu PHÚ MỸ |
NEO-PEPTIN | PEPTIN | dấu hiệu PEPTIN chỉ là sự loại bỏ thành phần phụ, thứ yếu (NEO) trong nhãn hiệu NEO-PEPTIN, do đó không có khả năng phân biệt |
Trong ví dụ SẦM SƠN nêu trên, việc so sánh số lượng các ký tự và thứ tự xuất hiện của các chữ cái đối với dấu hiệu chữ là rất quan trọng, nhưng không phải tất cả các trường hợp trùng phần lớn ký tự và thứ tự xuất hiện đồng nghĩa với việc hai dấu hiệu là tương tự nhau. Ví dụ, nhãn hiệu STARS (có nghĩa là “những ngôi sao”) và START (có nghĩa là “bắt đầu”) có 4/5 ký tự trùng nhau và 4/5 thứ tự chữ cái giống hệt nhau, nhưng xét về tổng thể đây là hai dấu hiệu hoàn toàn khác nhau do có nghĩa khác nhau.
Ví dụ với dấu hiệu hình/ dấu hiệu kết hợp:
Nhãn hiệu được bảo hộ | Dấu hiệu (nhãn hiệu) bị coi là tương tự tới mức gây nhầm lẫn | Phân tích |
Thành phần chính trong nhãn hiệu bảo hộ là phần chữ HOÀ KÝ và hình, trong khi đó dấu hiệu vi phạm chứa phần lớn các dấu hiệu đã được bảo hộ, chỉ thêm một số thành phần phụ trong cách trình bày. |
– Một dấu hiệu bị coi là tương tự về cách thức trình bày với nhãn hiệu được bảo hộ nếu toàn bộ hoặc phần chủ yếu của dấu hiệu và nhãn hiệu đó được trình bày theo cùng một phong cách, trong đó màu sắc của dấu hiệu và nhãn hiệu đó được coi là một yếu tố của phong cách trình bày.
Trong mục này, khi xem xét sự tương tự về cách thức trình bày giữa hai dấu hiệu ta xem xét hai yêu tố: phần chữ và phần hình.
Khi xem xét phần chữ giữa các dấu hiệu thì ta xem xét trên hai khía cạnh: nhãn hiệu là dấu hiệu chữ theo dạng thông thường (chữ không được trình bày theo một phong cách nhất định, cấu tạo của dấu hiệu là do các chữ cái trình bày trên một phông chữ nhất định) và nhãn hiệu là dấu hiệu chữ theo dạng cách điệu (các chữ được trình bày theo một phong cách đặc sắc, gây ấn tượng, ví dụ chữ Coca Cola – )
Khi xem xét sự tương tự giữa các dấu hiệu chữ, ta xem xét trên các yếu tố sau:
+ Tương tự về kết cấu của từ;
+ Tương tự về phát âm;
+ Tương tự về nghĩa của từ;
+ Tương tự về cách tình bày mỹ thuật của từ.
Sự tương tự về kết cấu của từ và tương tự về phát âm là các yếu tố tương tự chủ yếu của dấu hiệu chữ. Nếu hai dấu hiệu chữ tương tự nhau về mặt kết cấu và phát âm thì cho dù được trình bày dưới hình thức nào, hai dấu hiệu đó vẫn bị coi là tương tự. Khi đánh giá sự tương tự cần xem xét trên các khía cạnh sau:
+ Sự tương tự của số ký tự và sự sắp xếp (thứ tự xuất hiện) của các ký tự;
+ Sự tương tự của các từ và sự sắp xếp các từ (đối với nhãn hiệu là từ tiếng Việt);
+ Mức độ giống nhau của các âm tiết đứng ở các vị trí giống nhau;
+ Sự tồn tại các kết hợp âm giống nhau và vị trí của chúng;
+ Một dấu hiệu nằm trong một dấu hiệu khác;
+ Tính chất (mạnh, yếu) của các thành phần trùng hoặc tương tự nhau;
+ Độ dài của dấu hiệu.
Đối với nhãn hiệu là dấu hiệu chữ theo dạng thông thường, việc bố trí các ký tự và việc phát âm dấu hiệu là rất quan trọng. Đôi khi việc thêm một vài ký tự vào dấu hiệu nhưng không tạo nên sự khác biệt đáng kể với nhãn hiệu đang được bảo hộ.
Ví dụ về các nhãn hiệu là dấu hiệu dạng chữ thông thường có cùng cách phát âm:
Nhãn hiệu được bảo hộ | Dấu hiệu (hãn hiệu) bị coi là tương tự gây nhầm lẫn |
---|---|
TACO | TAKO hoặc TACCO.
Ký tự C và các ký tự K hoặc CC khi phát âm đều như nhau. |
TÂN KÝ | TÂNG KÝ
Việc thêm chữ G sau chữ TÂN không tạo ra sự khác biệt do cách phát âm của người miền Nam đối với chữ TÂN và TÂNG là như nhau) |
THÀNH LIÊM | THÀNH LIM
Cách phát âm của người miền Nam đối với chữ LIÊM và LIM là như nhau |
DECOLGEN | DECONGEL/DEKOLGEL
Các dấu hiệu trên và nhãn hiệu được bảo hộ đều được phát âm là đê-côn-gen, mặc dù khác nhau bởi chữ cái C và K hoặc N và L. |
Diclofam | Didofam
Dấu hiệu trên và nhãn hiệu được bảo hộ khác nhau chữ cl và d, về hình thức trình bày d rất giống chữ cl viết liền, hơn nữa thứ tự xuất hiện các nguyên âm trong nhãn hiệu là như nhau. |
Trường hợp các dấu hiệu chữ là tên người thì cần lưu ý những điểm sau:
+ Tên Âu – Mỹ: tên người châu Âu hoặc Mỹ thường có tên gọi (tên riêng – first name) và tên họ (family name), trong đó số lượng tên gọi là tương đối ít, còn tên họ thì đa dạng hơn. Vì vậy, tên họ thường có tính độc đáo hơn tên gọi, cho nên nếu trùng về tên họ thì dễ gây ra sự tương sự, ví dụ:
WINDERMAN
Và Peter WINDERMAN
Nhưng nếu chỉ trùng về tên gọi thì ít có khả năng tương tự xảy ra, ví dụ:
Peter
Và Peter WINDERMAN
hoặc
Robert KENEDY
Và Robert FORD
+ Tên người Việt: Ngược với tên người Âu – Mỹ, tên người Việt và một số nước khác có đặc điểm là tên họ thường giới hạn trong một số lượng ít, còn tên gọi thì thực tế là rất đa dạng nên tên gọi (kể cả tên đệm) có tính phân biệt cao hơn. Do đó, nếu hai dấu hiệu/nhãn hiệu chỉ trùng về họ thì ít có khả năng tương tự gây nhầm lẫn xảy ra. Ví dụ:
NguyÔn
Vµ NguyÔn Th¸i B×nh
HoÆc NguyÔn Kim
Vµ NguyÔn Thµnh
Nếu trùng về tên riêng (kể cả tên đệm) thì dễ gây nhầm lẫn. Ví dụ,
Thanh Tßng
Vµ Phan Thanh Tßng
HoÆc Phan Thanh Tßng
Vµ NguyÔn Thanh Tßng
Tuy nhiên, nếu họ tên chỉ gồm hai chữ mà có một chữ khác nhau thì ít có khả năng gây nhầm lẫn. Ví dụ:
L£ LAN, Lý LAN
Đối với dấu hiệu/nhãn hiệu là các dấu hiệu hình, sự thể hiện của yếu tố hình là rất quan trọng, trong đó các yếu tố về đường nét, hình khối, độ tương phản, sự phối hợp của các mảng màu…v.v tạo nên sự phân biệt của dấu hiệu hình. Khi xem xét sự tương tự của các dấu hiệu hình ta cần chú ý đến các yếu tố này từ đó xem xét về ấn tượng tổng thể của dấu hiệu đem lại.
Ví dụ về các nhãn hiệu là dấu hiệu hình có cùng cách trình bày:
Nhãn hiệu được bảo hộ | Dấu hiệu bị coi là tương tự gây nhầm lẫn |
---|---|
Thành phần chính của nhãn hiệu được bảo hộ là hình quả địa cầu bao bọc bởi hai dải băng, trong đó chữ KG nổi bật lên trên. Dấu hiệu bị coi là tương tự gây nhầm lẫn có hình quả địa cầu màu xanh và hai dải băng màu sáng, phần chữ KG có thêm chữ BEARINGS phía dưới, ngoài ra còn có thêm hai cung tròn phái trên và dưới. Tổng thể đây là hai dấu hiệu/nhãn hiệu này bị coi là tương tự gây nhầm lẫn với nhau. | |
Và | Phần hình của nhãn hiệu được bảo hộ và dấu hiệu bị coi là tương tự gây nhầm lẫn đều được tạo bởi các dải ghép thành chữ S, ngoài ra phần chữ SIÊU VIỆT Á và phần chữ VIỆT Á được bảo hộ không khác biệt đáng kể. |
Thành phần chính của cả hai dấu hiệu/nhãn hiệu này là phần chữ VEC, rõ ràng dù được trình bày với kiểu chữ khác đi nhưng khi phát âm nhãn hiệu thì phần chữ VEC vẫn được đọc lên do đó hai nhãn hiệu/dấu hiệu này được coi là tương tự gây nhầm lẫn với nhau. |
– Một dấu hiệu bị coi là tương tự về ý nghĩa với nhãn hiệu được bảo hộ nếu dấu hiệu đó và nhãn hiệu hoặc phần chủ yếu của nhãn hiệu được bảo hộ có cùng nội dung diễn đạt về một đối tượng (sự vật, hiện tượng, khái niệm v.v.), hoặc diễn đạt hai đối tượng tương tự nhau.
Đối với dấu hiệu dạng chữ, việc xác định ý nghĩa của dấu hiệu so với nhãn hiệu được bảo hộ bằng cách so sánh với nghĩa trong cùng ngôn ngữ (cụ thể là tiếng Việt) được sử dụng một cách thông dụng chứ không phải ngôn ngữ đặc biệt của từng vùng, miền khác nhau. Ngoài ra, nếu dấu hiệu có ý nghĩa và có thể tìm thấy trong các ngôn ngữ thông dụng khác trên thế giới (tiếng Anh, Pháp, tiếng Nga, Tây Ban Nha) thì cũng cần xem xét đến.
Ví dụ về các nhãn hiệu/dấu hiệu có cùng nghĩa:
Nhãn hiệu được bảo hộ | Nhãn hiệu bị coi là tương tự gây nhầm lẫn | Phân tích |
ELEPHANT | CON VOI | chữ CON VOI trong tiếng Anh là ELEPHANT |
GOLD STAR | KIM TINH, SAO VÀNG | Nhãn hiệu GOLD STAR khi sang tiếng việt là KIM TINH, SAO VÀNG |
La vie | The life | La vie (tiếng Pháp) và The life (tiếng Anh) có cùng ý nghĩa là Cuộc sống |
NÚI VÀNG | KIM SƠN | chữ NÚI VÀNG và KIM SƠN có cùng ý nghĩa trong tiếng Việt |
Sau đây là một số ví dụ khác về các nhãn hiệu và dấu hiệu bị coi là trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhau (xảy ra trên thực tế và đã bị xử lý):
Nhãn hiệu được bảo hộ | Dấu hiệu bị coi là trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn |
---|---|
HOẶC
Sản phẩm: nước khoáng, nước có ga, bia |
Sản phẩm: Nước tinh khiết |
Sản phẩm: Cà phê, chè, ca cao, gạo, bột sắn, bánh, mứt, kẹo v.v. | Sản phẩm: Bánh kẹo |
Sản phẩm: Bia | Sản phẩm: Bia |
Sản phẩm: Thuốc lá | Sản phẩm: Thuốc lá |
Sản phẩm: Bia | Sản phẩm: Bia |
Sản phẩm: Ôtô | Sản phẩm: Ôtô |
Sản phẩm: Ôtô | Sản phẩm: Ôtô |
Sản phẩm: Xe máy, phụ tùng xe máy | Sản phẩm: Phụ tùng xe máy |
Sản phẩm: Thuốc lá | Sản phẩm: Thuốc lá |
Sản phẩm: Phân bón hoá học tổng hợp, phân lân v.v. | Sản phẩm: Phân bón tổng hợp |
Sản phẩm: Cà phê | Sản phẩm: Cà phê |
Sản phẩm: Chất tẩy rửa, bột giặt | Sản phẩm: Bột giặt |
Sản phẩm: Dịch vụ nhà hàng, ăn uống | Sản phẩm: Dịch vụ nhà hàng, ăn uống |
Sản phẩm: Xe máy | Sản phẩm: Xe máy |
Sản phẩm: Hoa quả sấy khô | Sản phẩm: Hoa quả sấy khô |
Sản phẩm: Nước uống có ga | Sản phẩm: Nước uống có ga |
Sản phẩm: Giấy vệ sinh phụ nữ | Sản phẩm: Băng vệ sinh phụ nữ |
3.2.5.2 Xác định hàng hoá/dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ xâm phạm
Ngoài việc xác định sự trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn của các nhãn hiệu/dấu hiệu, còn phải xác định sự trùng hoặc tương tự, liên quan của hàng hoá/dịch vụ mang nhãn hiệu/dấu hiệu để khẳng định có hay không tồn tại hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Cách xác định cụ thể như sau:
– Hai hàng hoá được coi là cùng loại nếu có cùng bản chất (cấu tạo, thành phần, hình dáng v.v.), có cùng chức năng (công dụng hoặc mục đích sử dụng) và có cùng phương thức thực hiện chức năng đó;
– Hai hàng hoá được coi là tương tự nếu tương tự nhau về bản chất (thành phần, cấu tạo, hình dáng v.v.) hoặc/và tương tự về chức năng (công dụng hoặc mục đích sử dụng) và tương tự về phương thức thực hiện chức năng đó.
Hai hàng hoá cũng được coi là tương tự nếu liên quan đến nhau về bản chất (được cấu thành từ cùng loại nguyên liệu, hàng hoá này được cấu thành từ toàn bộ hay một phần của hàng hoá kia v.v.) và/hoặc liên quan với nhau về chức năng (để hoàn thành chức năng của hàng hoá này phải sử dụng hàng hoá kia, thường được sử dụng cùng với nhau, có cùng phương thức thực hiện chức năng v.v.) hoặc liên quan chặt chẽ về phương thức lưu thông trên thị trường (được bày bán cùng nhau, đưa ra thị trường cùng nhau).
Nguyên tắc đánh giá tính tương tự của hàng hoá nêu trên cũng được sử dụng khi đánh giá tính tương tự của hai dịch vụ.
Với nguyên tắc đánh giá nêu trên, có thể thấy rằng hai hàng hoá hoặc hai dịch vụ có thể bị coi là tương tự hoặc liên quan đến nhau mặc dù không cùng nằm trong một nhóm hàng hoá hoặc dịch vụ của Bảng phân loại Nixơ về phân loại hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích đăng ký nhãn hiệu.
Sau đây là một số ví dụ về cách xác định hàng hoá trùng, cùng loại, tương tự v.v. để xác định hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:
Loại hàng hoá/dịch vụ | Hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ | Hàng hoá mang nhãn hiệu bị nghi ngờ xâm phạm |
---|---|---|
Hàng hoá cùng loại về bản chất (cấu tạo, thành phần, hình dáng) | ||
Cùng nhóm sản phẩm | Quần áo phụ nữ (nhóm 25) | Quần áo nam giới (nhóm 25) |
Sơn (nhóm 1) | Dầu bóng (nhóm 1) | |
Khác nhóm sản phẩm | Keo dán dùng trong gia đình (nhóm 16) | Keo dùng cho giấy dán tường (nhóm 1) |
Găng tay dùng trong gia đình (nhóm 21) | Găng tay hở ngón dùng để giặt giũ quần áo (nhóm 24) | |
Sữa dùng cho trẻ em (nhóm 5) | Sữa bột (nhóm 29) | |
Hàng hoá cùng loại về chức năng (công dụng, mục đích sử dụng) hoặc có cùng phương thức thực hiện chức năng đó | ||
Cùng nhóm | Son môi (nhóm 3) | Kem dưỡng da (nhóm 3) |
Bút chì (nhóm 16) | Vở học sinh (nhóm 16) | |
Bút chì màu (nhóm 16) | Sáp màu (nhóm 16) | |
Khác nhóm | Tấm lợp fibrô xi-măng (nhóm 19) | Tôn lợp mái (nhóm 6) |
Mành bằng vải (nhóm 24) | Mành bằng tre (nhóm 20) | |
Hàng hoá tương tự về bản chất | ||
Cùng nhóm | Hộp đựng đồ bằng da (nhóm 18) | Va li giả da (nhóm 18) |
Cà phê (nhóm 30) | Chất thay thế cà phê (nhóm 30) | |
Khác nhóm | Quần áo đi mưa (nhóm 25) | Quần áo bảo hộ lao động (nhóm 9) |
Phim chưa chụp (phim chưa lộ sáng) (nhóm 1) | Phim đã có chứa nội dung (phim lộ sáng – ví dụ như phim điện ảnh) (nhóm 9) | |
Hàng hoá tương tự liên quan về bản chất (được cấu thành từ loại nguyên liệu, hàng hoá này hoặc được cấu thành từ toàn bộ hay một phần của hàng hoá kia | ||
Cùng nhóm | Xi măng (nhóm 19) | Phụ gia ximăng (chế phẩm gia tăng tính kết dính) (nhóm 19) |
Dây kim loại (nhóm 6) | Que hàn (nhóm 6)` | |
Khác nhóm | Giày (nhóm 25) | Dây giày (nhóm 26) |
Gỗ bán thành phẩm (nhóm 19) | Bàn, ghế bằng gỗ (nhóm 20) | |
Hàng hoá tương tự liên quan với nhau về chức năng hoặc liên quan chặt chẽ về phương thức lưu thông trên thị trường (được bày bán, đưa ra thị trường cùng nhau) | ||
Cùng nhóm | Dây khoá kéo, cúc (nhóm 26) | Khuy, miếng đính trang trí (nhóm 26) |
Lưới dùng cho môn cầu lông (nhóm 28) | Vợt cầu lông (nhóm 28) | |
Khác nhóm – Bày bán cùng nhau | Giày dép (nhóm 25) | Cặp, túi (nhóm 18) – |
Đồng hồ (nhóm 14) | Kính (nhóm 9) | |
Đường (nhóm 30) | Sữa (nhóm 29) | |
Khác nhóm – Sử dụng cùng nhau | Xi đánh giày (nhóm 3) | Bàn chải đánh giày (nhóm 18) |
Máy in (nhóm 7) | Mực dùng cho máy in (nhóm 2) |
Cần lưu ý rằng việc xem xét sự trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn trên giấy tờ là không đủ đề khẳng định có sự nhầm lẫn trên thực tế hay không. Vì vậy, trong quá trình xem xét giải quyết vụ kiện về xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, cần phải sử dụng tất cả các căn cứ sau để đánh giá khả năng gây nhầm lẫn của dấu hiệu bị nghi ngờ xâm phạm với nhãn hiệu được bảo hộ:
– Thứ nhất, sự tương tự giữa dấu hiệu bị nghi ngờ xâm phạm với nhãn hiệu được bảo hộ. Cách đánh giá này được thực hiện như trình bày ở phần trên đây;
– Thứ hai, sự tương tự của các phương pháp tiếp thị và kênh phân phối: Nếu sản phẩm mang dấu hiệu bị nghi ngờ xâm phạm có cùng phương pháp tiếp thị và kênh phân phối với sản phẩm mang nhãn hiệu được bảo vệ thì khả năng gây nhầm lẫn là cao;
– Thứ ba, đặc điểm của nhóm khách hàng mục tiêu và mức độ quan tâm của họ trong việc mua bán hàng hoá hoặc sử dụng dịch vụ. Ví dụ, nhóm khách hàng mục tiêu của sản phẩm ôtô là những khách hàng có sự quan tâm đặc biệt kỹ lưỡng đến sản phẩm mà họ định mua (về mọi khía cạnh của sản phẩm), do vậy, có thể tồn tại hai nhãn hiệu gần như trùng nhau cho sản phẩm của hai công ty khác nhau nhưng người tiêu dùng sản phẩm này vẫn không bị nhầm lẫn.
Nhãn hiệu của công ty Hyundai đăng ký cho sản phẩm ôtô |
Nhãn hiệu của Công ty Honda đăng ký cho sản phẩm ôtô |
Sự quan tâm của người tiêu dùng mục tiêu còn được giải thích theo trình độ nhận thức (nói chung) của họ. Ví dụ, đối với nhãn hiệu dùng cho các loại dược phẩm bán theo đơn kê của bác sĩ thì người tiêu dùng trước hết sẽ là các dược sĩ và bác sĩ chứ không phải là người bệnh, do vậy có thể hai nhãn hiệu rất tương tự nhau nhưng vẫn không có khả năng gây nhầm lẫn. Ngược lại, trong trường hợp thuốc bán không theo đơn mà người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân tự mua thì các dấu hiệu phải có khả năng phân biệt cao thì người tiêu dùng mới không có khả năng bị nhầm lẫn.
– Thứ tư, trong trường hợp hàng hoá và dịch vụ mang nhãn hiệu bị nghi ngờ xâm phạm không thuộc cùng lĩnh vực với hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ, cần phải trả lời câu hỏi liệu các khách hàng trong tương lai của sản phẩm đó có khả năng nghĩ rằng chủ sở hữu sản phẩm và dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình sang cả các lĩnh vực không liên quan khác hay không.
– Thứ năm, khi hàng hoá và dịch vụ được bán hoặc cung cấp ở các vùng khác nhau, cần cân nhắc khả năng mở rộng phạm vi lãnh thổ bán hoặc cung cấp các hàng hoá hoặc dịch vụ đó.
– Thứ sáu, ý định của người có hành vi xâm phạm.
– Thứ bảy, chứng cứ về sự nhầm lẫn trên thực tế.
3.2.5.3 Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng
Theo quy định tại khoản 1.d Điều 129 Luật sở hữu trí tuệ thì các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng:
“Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.”
Như vậy có thể thấy một số hành vi mà đối với nhãn hiệu bình thường sẽ không bị coi là xâm phạm quyền nhưng đối với nhãn hiệu nổi tiếng lại bị coi là xâm phạm quyền. Sau đây là tóm tắt các tình huống bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu thông thường và nhãn hiệu nổi tiếng,
Tình huống | Hệ quả | |
---|---|---|
Nhãn hiệu thông thường | Nhãn hiệu nổi tiếng | |
Sử dụng nhãn hiệu trùng cho hàng hoá/dịch vụ trùng | Xâm phạm | Xâm phạm |
Sử dụng nhãn hiệu trùng cho hàng hoá/dịch vụ tương tự | Xâm phạm | Xâm phạm |
Sử dụng nhãn hiệu tương tự cho hàng hoá/dịch vụ trùng | Xâm phạm | Xâm phạm |
Sử dụng nhãn hiệu tương tự cho hàng hoá/dịch vụ tương tự | Xâm phạm | Xâm phạm |
Sử dụng nhãn hiệu trùng/tương tự cho hàng hoá/dịch vụ không tương tự hoặc không liên quan | Không xâm phạm | Xâm phạm, nếu :
– Làm giảm khả năng phân biệt của nhãn hiệu được bảo hộ – Lợi dụng uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu được bảo hộ – Gây nhầm lẫn – Gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng |
3.2.5.4. Phân biệt hành vi xâm phạm nhãn hiệu và các chỉ dẫn thương mại khác (tên thương mại, chỉ dẫn địa lý) với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Chỉ dẫn thương mại bao gồm các dấu hiệu như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, nhãn hàng hoá v.v. Cần phân biệt hành vi xâm phạm nhãn hiệu với các hành vi xâm phạm các chỉ dẫn địa lý khác và đặc biệt là phân biệt với hành vi hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Nhãn hiệu được bảo hộ và bao bì sản phẩm mang nhãn hiệu được bảo hộ | Dấu hiệu bị coi là cạnh tranh không lành mạnh |
Trong ví dụ nêu trên, nhãn hiệu được bảo hộ là «ANTIBIO». Nếu căn cứ vào các quy định liên quan đến nhãn hiệu thì dấu hiệu «UPHA-BIO» không phải là dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu «ANTIBIO» (xét về bất kỳ khía cạnh nào như cấu trúc, ý nghĩa v.v.). Tuy nhiên, cách trình bày nhãn hiệu «UPHA-BIO» bị coi là tương tự với cách trình bày nhãn hiệu «ANTIBIO» trên nhãn sản phẩm và có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng hoặc bị coi là chủ sở hữu nhãn hiệu UPHA-BIO đã lợi dụng uy tín, khả năng phân biệt đã đạt được từ cách trình bày nhãn hiệu «ANTIBIO» trên nhãn sản phẩm như trình bày trên đây. Theo Điều 130 Luật sở hữu trí tuệ thì hành vi nêu trên bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
VIII. THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ VỀ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ ÁP DỤNG CÁC CHẾ TÀI DÂN SỰ
1. Thẩm quyền của toà án nhân dân
Thẩm quyền của toà án nhân dân đối với các tranh chấp liên quan tới quyền sở hữu công nghiệp được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 như sau:
“Điều 25. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
…
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,…. trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 29 của Bộ luật này”
Điều 29. Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
…
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ… giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận”.
Căn cứ vào quy định tại 2 Điều nêu trên đây, có thể thấy rằng các tranh chấp quy định tại Điều 29 chủ yếu nảy sinh trong mối quan hệ kinh tế giữa các bên. Do vậy, hầu hết các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có quyền sở hữu công nghiệp (mang tính chất của hành vi vi phạm trách nhiệm ngoài hợp đồng) thuộc nhóm các tranh chấp dân sự quy định tại Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Các tranh chấp thuộc quy định tại khoản 2 Điều 29 là những tranh chấp nảy sinh trong quan hệ hợp đồng giữa hai bên (chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp).
2. Áp dụng các biện pháp dân sự để xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Theo quy định tại Điều 202 Luật sở hữu trí tuệ, toà án áp dụng các biện pháp dân sự sau đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ:
- buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
- buộc xin lỗi, cải chính công khai;
- buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
- buộc bồi thường thiệt hại;
- Buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Tài liệu này sẽ tập trung vào phân tích sâu hơn về biện pháp thứ 4 và thứ 5 nêu trên.
2.1. Biện pháp buộc bồi thường thiệt hại trong các vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được áp dụng theo nguyên tắc chung của pháp luật tố tụng dân sự, với một số lưu ý nhất định. Điều đó có nghĩa là trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định của Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ. Một ngoại lệ đối với cách tính thiệt hại để yêu cầu bồi thường trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là yêu cầu bồi thường theo mức ấn định trước của luật mà không dựa vào việc chứng minh thiệt hại thực tế. Cách tính này được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ.
Điều 204 và Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ quy định các nguyên tắc xác định thiệt hại và các căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể như sau:
– Thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm:
+ Thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại.
Các căn cứ để tính thiệt hại bao gồm:
. Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất;
Khi xem xét các chứng cứ chứng minh về thiệt hại vật chất nêu trên, cần lưu ý những điểm sau:
Phải có quan hệ nhân quả trực tiếp giữa tổn thất về tài sản và mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Sự giảm sút về thu nhập, lợi nhuận v.v. không phải trong trường hợp nào cũng chỉ do duy nhất hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra. Ví dụ, doanh nghiệp A trước khi bị giả mạo nhãn hiệu (năm 2006) có thu nhập 1 tỷ đồng một năm, và lợi nhuận thu được là 100 triệu đồng. Năm 2007, doanh nghiệp B có hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp A và trong năm đó, thu nhập của doanh nghiệp A là 500 triệu đồng và lợi nhuận là 20 triệu đồng. Trong trường hợp này, không thể tính đơn thuần phần giảm thu nhập 500 triệu đồng và giảm lợi nhuận 80 triệu đồng của doanh nghiệp A là do hành vi xâm phạm quyền của doanh nghiệp B. Phần giảm thu nhập và lợi nhuận đó còn có thể do các yếu tố thị trường tác động, ví dụ giá cả tăng dẫn tới nhu cầu đối với sản phẩm giảm và chi phí đầu vào tăng nên lợi nhuận của doanh nghiệp A giảm đi. Tất cả những yếu tố này phải được xác định khi tính toán mức thiệt hại mà doanh nghiệp A phải chịu. Doanh nghiệp A phải cung cấp đủ chứng cứ để chứng minh thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền gây ra và toà án chỉ quyết định trên cơ sở đã có ý kiến về những chứng cứ đó của doanh nghiệp B.
Ngoài ra, cần lưu ý là trong các vụ tranh chấp về xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, bị đơn thu được lợi nhuận từ hành vi xâm phạm quyền nhưng không có nghĩa là khoản lợi nhuận đó chính là thiệt hại mà nguyên đơn đã phải gánh chịu. Trường hợp này xảy ra khi chủ sở hữu công nghiệp chưa khai thác đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ (chưa đưa sản phẩm mang đối tượng sở hữu công nghiệp) ra thị trường. Khi đó, nguyên đơn chưa có thu nhập từ khai thác quyền sở hữu công nghiệp, do vậy không thể coi là nguyên đơn bị thiệt hại vật chất trực tiếp.
. Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện
Nếu nguyên đơn sử dụng căn cứ này thì phải chỉ ra cơ sở hợp lý cho việc tính mức giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ tương ứng. Ví dụ, trong trường hợp nguyên đơn đã chuyển giao quyền sử dụng không độc quyền cho một doanh nghiệp sử dụng nhãn hiệu với mức giá là 5% giá bán tịnh của sản phẩm mang nhãn hiệu thì đây chính là mức được sử dụng làm căn cứ tính thiệt hại.
. Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định nêu trên thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng. Điều này có nghĩa là mặc dù nguyên đơn không chứng minh và đòi bồi thường thiệt hại theo thực tế mà yêu cầu bồi thường theo mức luật định (không quá 500 triệu đồng) nhưng để quyết định áp dụng mức bồi thường cụ thể nào đó, toà án vẫn phải xem xét đến mức độ thiệt hại.
+ Thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng.
Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại.
Ngoài khoản bồi thường thiệt hại nêu trên, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu Toà án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư.
Cần phải lưu ý là nguyên đơn chỉ được yêu cầu thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư. Mức chi phí hợp lý cho luật sự được tính trên cơ sở xem xét những yếu tố sau:
. mức độ phức tạp của vụ việc để xác định đòi hỏi đối với trình độ của luật sư hoặc chuyên gia (rõ ràng những vụ việc đơn giản hoặc tương đối rõ ràng thì đương nhiên không thể thuê luật sư có trình độ giỏi với chi phí cao);
. mức chi phí trung bình cho luật sư trong những vụ việc tương tự;
. thời gian mà luật sư cần để giải quyết vụ việc.
Tất cả các yếu tố trên cần được tính toán trên cơ sở vụ việc giả định là do luật sư người Việt Nam thực hiện và tại Việt Nam vào thời điểm tiến hành vụ việc. Điều đó có nghĩa là nếu nguyên đơn là một doanh nghiệp Hoa Kỳ và thực tế họ thuê luật sư Hoa Kỳ với chi phí 200 đôla Mỹ cho một giờ làm việc thì chi phí này không được coi là chi phí hợp lý để đòi bị đơn bồi thường cho dù đó là khoản chi phí có thực và nguyên đơn đã phải trả cho luật sư của mình.
2.2. Buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Điều 29 Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết về cách thức xử lý hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Trong Điều này có sự phân biệt giữa hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ và hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mà không phải là hàng hoá giả mạo[3]. Cách thức xử lý hai loại hàng hoá này (bao gồm cả nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó) cũng khác nhau, cụ thể như sau:
Đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó[4] thì toà án áp dụng một trong các biện pháp sau đây:
+ Phân phối không nhằm mục đích thương mại hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại với điều kiện phải đáp ứng các điều kiện sau (theo quy định tại Điều 30 Nghị định 105/2006/NĐ-CP):
. hàng hoá có giá trị sử dụng;
. yếu tố xâm phạm đã được loại bỏ khỏi hàng hoá;
. việc phân phối, sử dụng không nhằm thu lợi luận và không ảnh hưởng một cách bất hợp lý tới việc khai thác bình thường quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, trong đó ưu tiên mục đích nhân đạo, từ thiện hoặc phục vụ lợi ích xã hội.
. Người được phân phối, tiếp nhận để sử dụng không phải là khách hàng tiềm năng của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Có thể đưa ra một ví dụ để giải thích cho yêu cầu này như sau: hàng hoá là bột giặt giả mạo nhãn hiệu OMO và các trường học phổ thông bán trú thường mua sản phẩm bột giặt mang nhãn hiệu OMO để giặt quần áo cho học sinh. Nếu toà án quyết định phân phối sản phẩm xâm phạm dưới hình thức tặng cho các trường học này thì điều đó có thể ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu vì làm như vậy sẽ dẫn đến việc chủ sở hữu nhãn hiệu thực sự mất khách hàng tiềm năng (trong trường hợp này là khách hàng thực sự) của họ.
+ Buộc tiêu huỷ
Biện pháp buộc tiêu huỷ được áp dụng đối với hàng hoá giả mạo sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó trong trường hợp không hội đủ các điều kiện để áp dụng biện pháp buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại nêu trên đây.
+ Buộc chủ hàng, người vận chuyển, người tàng trữ loại bỏ các yếu tố xâm phạm và đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh là hàng hoá giả mạo về nhãn hiệu, tái xuất đối với hàng hoá nhập khẩu là hàng hoá giả mạo về nhãn hiệu, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về nhãn hiệu
Trong trường hợp không loại bỏ được yếu tố xâm phạm khỏi hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó thì áp dụng biện pháp thích hợp quy định tại khoản 4 Điều 29 Luật sở hữu trí tuệ.
Đối với hàng hoá xâm phạm không phải là hàng giả về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó thì toà án áp dụng biện pháp buộc chủ hàng, người vận chuyển, người tàng trữ hàng hoá loại bỏ yếu tố xâm phạm khỏi hàng hoá và áp dụng các biện pháp thích hợp quy định tại khoản 4 Điều 29 Nghị định 105/2006/NĐ-CP.
Đối với hàng hoá nhập khẩu là hàng hoá xâm phạm mà không phải là hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó thì toà án áp dụng biện pháp thích hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 29 Nghị định 105/2006/NĐ-CP.
3. Trưng cầu giám định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng là một lĩnh vực chuyên ngành đòi hỏi phải có những kiến thức chuyên môn sâu để giải quyết các vụ tranh chấp. Để bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ việc, thông thường, toà án có thể trưng cầu ý kiến chuyên gia hoặc trưng cầu giám định về các khía cạnh khác nhau liên quan đến hành vi bị kiện là xâm phạm quyền.
Trong các vụ việc về sở hữu trí tuệ, toà án có thể trưng cầu giám định về các vấn đề sau:
- Tình trạng pháp lý, phạm vi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp;
- Các chứng cứ để tính mức độ thiệt hại;
- Các yếu tố xâm phạm quyền, sản phẩm, dịch vụ xâm phạm, yếu tố là căn cứ để xác định giá trị đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ, đối tượng xâm phạm.;
- Các tình tiết khác của vụ tranh chấp, xâm phạm cần làm rõ.
IX. BÀI TẬP THỰC HÀNH
Bài tập 1.
Công ty SYNGENTA PARTICIPATION AG. (Thuỵ Sĩ) là chủ sở hữu nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam theo số đăng ký quốc tế 754902, cho sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật. Chủ sở hữu nhãn hiệu này đã cho phép Công ty A (của Việt Nam) được sử dụng nhãn hiệu này theo một hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu. Công ty A
phát hiện trên thị trường xuất hiện sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật mang nhãn hiệu mà họ cho là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu được bảo hộ
Mẫu nhãn hiệu bị nghi ngờ xâm phạm kèm theo
Công ty A nộp đơn khởi kiện ra toà kinh tế, toà án nhân dân thành phố Hà Nội và yêu cầu :
– Công ty B chấm dứt hành vi xâm phạm ;
– Yêu cầu toà án tịch thu và tiêu huỷ hàng hoá mang nhãn hiệu vi phạm ;
– Công ty B bồi thường thiệt hại 1 tỷ đồng Việt Nam với lập luận và chứng cứ rằng Công ty B đã đưa ra thị trường 100.000 sản phẩm mang nhãn hiệu xâm phạm và với số lượng hàng hoá như vậy, Công ty A đã phải trả cho chủ sở hữu nhãn hiệu tiền phí sử dụng nhãn hiệu là 1 tỷ đồng.
Anh (chị) xãy giải quyết vụ kiện trên.
Bài tập 2.
Công ty TNHH thương mại VIC là chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp nhãn sản phẩm thức ăn gia súc :
được cấp Bằng độc quyền số 6412 ngày 14.5.2001 trên cơ sở đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp số K20000703 ngày 25.8.2000. (Giả định Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp này đã được gia hạn hiệu lực 2 lần và đến năm 2020 pháp luật về sở hữu trí tuệ và dân sự, tố tụng dân sự của Việt Nam không có gì thay đổi). Tháng 07 năm 2015, Công ty VIC phát hiện Công ty A sản xuất và đưa ra thị trường sản phẩm thức ăn gia súc có kiểu dáng mà họ cho là không khác biệt cơ bản với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ của họ
Tháng 6 năm 2016, Công ty VIC kiện Công ty A ra toà án dân sự Toà án nhân dân thành phố Hà Nội và yêu cầu công ty A :
– Chấm dứt hành vi xâm phạm;
– Bồi thường thiệt hại cho Công ty VIC với mức 500 triệu đồng với lập luận và chứng cứ là từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 6 năm 2016, tổng lợi nhuận của Công ty VIC đã bị giảm 500 triệu đồng do hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp của Công ty A gây ra;
– Buộc tiêu huỷ hàng hoá mang kiểu dáng công nghiệp xâm phạm.
Sau khi được thông báo về vụ kiện, Công ty B (bị đơn) cung cấp cho toà án chứng cứ về việc mình có quyền sử dụng trước kiểu dáng công nghiệp và do vậy, hành vi sử dụng kiểu dáng công nghiệp của họ là hợp pháp và không bị coi là hành vi xâm phạm quyền. Tuy nhiên, từ năm 1999 đến năm 2013, Công ty A chỉ sản xuất mỗi năm 200 sản phẩm và từ năm 2014, mỗi năm Công ty A sản xuất 20.000 sản phẩm.
Anh (chị) hãy giải quyết vụ kiện trên.
QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN
Tác giả: Trần Hữu Nam Giám đốc quản lý
Công ty TRAN.H.N.& Cộng sự
Phần I. Giới thiệu chung
1. Quyền sở hữu trí tuệ
Sở hữu trí tuệ có thể hiểu là tập hợp các quyền hợp pháp có được từ sáng tạo trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật. Hệ thống luật pháp bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ trước hết là quy định các quyền nhân thân và các quyền tài sản của các tác giả đối với hoạt động sáng tạo của họ đồng thời với các quyền tiếp cận những sáng tạo đó của công chúng. Tiếp đó, đây cũng là chính sách thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, và phổ biến cũng như áp dụng các kết quả của hoạt động sáng tạo này và khuyến khích kinh doanh lành mạnh góp phần vào sự phát triển kinh tế và xã hội.
Nói chung, luật sở hữu trí tuệ bảo vệ người sáng tạo bằng cách trao cho họ sự độc quyền, có giới hạn về thời gian, kiểm soát việc sử dụng các kết quả của sáng tạo trí tuệ (tác phẩm) của họ. Sở hữu trí tuệ được phân chia theo truyền thống thành hai nhánh, “sở hữu công nghiệp” và “quyền tác giả”.
Theo Công ước Thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) được ký tại Stockholm vào ngày 14 tháng 7 năm 1967 (Điều 2(viii)) thì
“quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền liên quan tới:
các tác phẩm khoa học, nghệ thuật và văn học,
chương trình biểu diễn của các nghệ sỹ biểu diễn, các bản ghi âm và chương trình phát thanh, truyền hình,
sáng chế trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người,
các phát minh khoa học,
kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn và tên thương mại,
bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh,
và tất cả những quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học hoặc nghệ thuật.”
1.1 Các quyền sở hữu công nghiệp
Các quyền liên quan đến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn và tên thương mại tạo thành nhánh các quyền sở hữu công nghiệp của quyền sở hữu trí tuệ. Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh ở một số nước cũng được xem là thuộc về nhánh này, như Điều 1(2) Công ước Paris về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (đạo luật Stockholm năm 1967) (“Công ước Paris”) quy định “việc chống cạnh tranh không lành mạnh” là một trong các lĩnh vực “bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp”; Công ước tuyên bố rằng “bất kỳ hành vi cạnh tranh nào trái với thông lệ chính đáng trong hoạt động thương mại và công nghiệp được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh” (Điều 10bis(2)).
1.2 Các quyền tác giả và các quyền liên quan
Các quyền được công nhận đối với các tác phẩm khoa học, nghệ thuật và văn học thuộc về nhánh “quyền tác giả” trong quyền sở hữu trí tuệ. Còn các quyền dành cho các chương trình biểu diễn của các nghệ sỹ biểu diễn, các bản ghi âm và việc phát thanh, truyền hình thường được gọi là “các quyền liên quan”, theo nghĩa là các quyền liên quan tới quyền tác giả.
1.3 Quyền đối với các phát minh khoa hoc
Các phát minh khoa học, lĩnh vực còn lại được đề cập trong Công ước WIPO theo Hiệp ước Giơnevơ về Ghi nhận quốc tế các Phát minh khoa học (1978) định nghĩa một phát minh khoa học là “việc phát hiện ra hiện tượng, các đặc tính hay quy luật của thế giới tự nhiên chưa từng được phát hiện và có thể kiểm chứng”.
2. Cơ sở hình thành và vai trò của luật pháp quyền tác giả
Luật quyền tác giả là một nhánh của pháp luật bảo vệ các quyền của người sáng tạo. Luật bản quyền quản lý các quyền của những người sáng tạo trí tuệ đối với các sản phẩm sáng tạo tinh thần (phi vật chất) của họ. Luật bản quyền còn liên quan tới truyền thông đại chúng, đến hầu hết các dạng thức và phương pháp truyền đạt tác phẩm tới công chúng, không chỉ đối với việc xuất bản mà còn cả với các lĩnh vực như phát thanh và truyền hình, trình chiếu phim tại rạp…và thậm chí đối với cả hệ thống sử dụng máy tính để lưu trữ và truy xuất thông tin.
Quyền tác giả đóng một vai trò đặc biệt trong bối cảnh phát triển. Các nước đang phát triển phải đương đầu với nhiều khó khăn trong việc phổ cập giáo dục cho nhân dân đồng thời cũng đối mặt với những thách thức cấp bách về việc khích lệ và thúc đẩy sáng tạo trí tuệ và thoả mãn nhu cầu cấp thiết của việc nâng cao kiến thức, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, ở đất nước họ.
Việc xây dựng hệ thống sách giáo khoa cho sự nghiệp giáo dục và các tác phẩm bằng bản ngữ và làm giàu kho di sản dân tộc không thể phát triển nếu thiếu sự bảo đảm lợi ích kinh tế tương xứng cho nỗ lực của các tác giả, để cho tác giả có thể chuyên tâm dành hết thời gian và năng lực sáng tạo của mình vào việc tạo ra các tác phẩm. Bảo hộ quyền tác giả liên quan tới việc đảm bảo không chỉ để việc tác giả được nhận tiền nhuận bút hấp dẫn, mà còn là sự bảo hộ tương ứng cho các nhà xuất bản, vì cơ hội phổ biến tác phẩm của một tác giả cũng phụ thuộc vào luật bảo hộ các nhà xuất bản.
Luật pháp có thể đem lại sự bảo hộ không chỉ cho những người sáng tạo các tác phẩm trí tuệ mà cho cả quyền lợi của những người hỗ trợ khác, những người giúp phổ biến các tác phẩm đó. Việc bảo hộ những người hỗ trợ cho người sáng tạo trí tuệ đối với các nước đang phát triển cũng quan trọng vì thành tựu văn hoá của những nước này bao gồm, không chỉ trên phạm vi nhỏ, cả các buổi biểu diễn, các chương trình ghi âm, việc phát thanh truyền hình các tác phẩm dân gian. Nếu các nước đang phát triển thường có nhu cầu về sách báo nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, giáo dục và nghiên cứu, thì ngược lại các nước này có thể phổ biến di sản văn hoá dân tộc phong phú của mình tới thế giới, những di sản được bảo hộ trong khuôn khổ pháp luật về bản quyền thông qua sự bảo hộ quyền của những người hỗ trợ hay như còn được gọi là các quyền liên quan (quyền kề cận).
Bước đầu tiên là xây dựng pháp luật. Quyền tác giả, nếu được thực sự thi hành một cách hiệu quả, sẽ là sự khích lệ đối với các tác giả và những người được chuyển nhượng quyền (ví dụ các nhà xuất bản) để sáng tạo và phổ biến kiến thức.
Theo quan điểm của người sáng tạo tác phẩm thì bảo hộ quyền tác giả chỉ có ý nghĩa nếu người sáng tạo thực sự được hưởng lợi từ tác phẩm đó và điều này không thể xảy ra nếu không có việc xuất bản công bố và phổ biến tác phẩm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phổ biến đó. Đây là vai trò cơ bản của luật bản quyền.
Bảo hộ quyền tác giả là một công cụ hữu hiệu nhất nhằm khuyến khích, làm giàu và phổ biến di sản văn hoá quốc gia. Sự phát triển của một đất nước phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động sáng tạo của người dân và việc khuyến khích sáng tạo cá nhân, phổ biến các sáng tạo đó – là điều kiện thiết yếu đối với quá trình phát triển.
Bản quyền là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển. Thực tế đã chỉ ra rằng việc làm giàu và phổ biến di sản văn hoá quốc gia phụ thuộc trực tiếp vào mức độ bảo hộ đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Sáng tạo trí tuệ của một quốc gia càng quan trọng thì vị thế quốc gia đó càng cao; số lượng các tác phẩm văn học nghệ thuật càng nhiều thì lực lượng những người hoạt động hỗ trợ (nghệ sĩ biểu diễn, nhà sản xuất chương trình ghi âm, tổ chức phát thanh truyền hình) như trong ngành công nghiệp sách báo, băng hình, đĩa nhạc và giải trí càng đông đảo, và cuối cùng thì việc khuyến khích sáng tạo trí tuệ là một trong những tiền đề cho phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội.
Thách thức nảy sinh trong mục tiêu này là duy trì sự cân bằng hợp lý giữa biện pháp khuyến khích sáng tạo qua việc đền đáp thích đáng cho người sáng tạo tác phẩm và đồng thời đảm bảo rằng những đền đáp cho tác giả như vậy là hài hòa với lợi ích công cộng và nhu cầu của xã hội hiện đại.
3. Quyền tác giả ở Việt Nam và các giai đoạn phát triển
Các giai đoạn phát triển của hệ thống quyền tác giả tại Việt Nam qua các Hệ thống văn bản pháp luật liên quan:
3.1 Giai đoạn từ 1954 đến trước năm 1975
Giai đoạn này các văn bản về quyền tác giả còn chưa nhiều, hầu hết được quy định rải rác trong nhiều văn bản khác nhau như các văn bản quy định về lĩnh vực văn hóa, xuất bản, báo chí…Đây cũng là tình trạng chung trong nhiều lĩnh vực của hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn này.
- Sắc lệnh số 282-SL ngày 14/12/1956 kèm theo Luật về chế độ báo chí (Điều 6 quy định quyền lợi của những người viết báo chuyên nghiệp sẽ do Nghị định của Thủ tướng Chính phủ quy định tuy nhiên lại không tìm thấy Nghị định này).
- Nghị quyết ngày 14/09/1957 chuẩn y sắc luật số 003-SLT ngày 18/06/1957 quy định chế độ xuất bản (Điều 8 đến Điều 15).
3.2 Giai đoạn từ 1975 đến trước năm 1994
Đã được chú trọng và đề cập nhiều hơn trước, cụ thể được quy định trong một số nghị định và thông tư sau đây:
- Thông tư của Bộ Văn hóa số 04-VH/TT ngày 07/01/1987 hướng dẫn, giải thích Nghị định số 142-HĐBT ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ trưởng quy định quyền tác giả.
- Thông tư số 63-VH/TT ngày 16/07/1988 hướng dẫn việc sử dụng và phân phối nhuận bút đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học hết thời hạn hưởng quyền tác giả.
- Thông tư liên bộ Tài chính, Văn hóa – Thông tin – Thể thao và Du lịch số 281-TTLB ngày 25/09/1990 hướng dẫn thi hành chế độ đặt hàng sách, báo và chế độ trợ giá đối với báo chí.
3.3 Giai đoạn từ 1994 đến trước năm 2005
Giai đoạn này, các văn bản đã được quy định cụ thể hơn, đặc biệt đã ra đời một pháp lệnh đầu tiên về quyền tác giả:
- Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994.
- Bộ luật Dân sự năm 1995 (Điều 745-772, Điều 836).
- Nghị định số 76/CP của Chính phủ ngày 29/11/1996 hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự.
- Nghị định 60/CP ngày 06/06/1997 của Chính phủ hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 12).
- Thông tư của Bộ Văn hóa – Thông tin số 27/2001/TT-BVHTT ngày 10/05/2001 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996, Nghị định số 60/CP ngày 06/06/1997 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự.
- Thông tư liên tịch số 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT ngày 05/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại TAND.
- Nghị định số 61/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/06/2002 về chế độ nhuận bút.
- Thông tư liên tịch của Bộ Văn hóa – Thông tin, Bộ Xây dựng số 04/2003/TTLT-BVHTT-BXD ngày 24/01/2003 về hướng dẫn quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
- Thông tư liên tịch của Bộ Văn hóa – Thông tin, Bộ Tài chính số 58/2003/TTLT-BVHTT-BTC ngày 17/10/2003 hướng dẫn quyền tác giả tại cơ quan hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Luật Xuất bản năm 2004 (Điều 19: Quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản).
3.4 Giai đoạn từ 2005 đến nay
Đã được quy định toàn diện và cụ thể, là giai đoạn phát triển của hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng, với sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ.
- Bộ luật Dân sự 2005 (Điều 736-743, Điều 774).
- Luật Sở hữu trí tuệ.
- Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.
- Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
Phần II. Các quyền tác giả
1.Khái niệm cơ bản
1.1. Bản chất : quyền tài sản đối với đối tượng phi vật chất; có thời hạn; quyền độc quyền; là một tập hợp/nhóm các quyền riêng rẽ đối với tác phẩm; các hệ thống luật pháp quyền tác giả và hệ thông bản quyền
1.2. Nguyên tắc:
Cân bằng lợi ích của chủ sở hữu quyền tác giả và lợi ích của công chúng; các hạn chế quyền
2. Tác phẩm được sáng tạo bởi tác giả
2.1. Bảo hộ cách thức thể hiện, không bảo hộ ý tưởng; lưu định tác phẩm được sáng tạo ra
2.2. Tác phẩm nguyên gốc; nguyên tác và tác phẩm phái sinh (dịch, chuyển thể, phóng tác, biên soạn, tuyển chọn)
2.3. Bảo hộ không phụ thuộc vào mục đích sử dụng tác phẩm, chất lượng nghệ thuật
2.4. Bảo hộ không đòi hỏi thủ tục (đăng ký) và hình thức (thông tin về quyền)
3. Đối tượng được bảo hộ bản quyền
Đối tượng bảo hộ bản quyền bao gồm các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học dưới bất kỳ hình thức và cách thức thể hiện nào.
Về nguyên tắc, các tác phẩm được hưởng sự bảo hộ bản quyền là tất cả các sáng tạo trí tuệ nguyên gốc. Để được bảo hộ bởi luật bản quyền, tác phẩm của một tác giả phải có nguồn gốc từ bản thân tác giả; các tác phẩm phải bắt nguồn từ sự lao động sáng tạo trí óc của tác giả, là kết quả sáng tạocủa tác giả.
Hầu hết các tác phẩm như sách, bức tranh chỉ tồn tại một khi các tác phẩm này được hiện thân dưới một dạng vật chất cụ thể. Tất nhiên cũng có những tác phẩm lại tồn tại mà không thể hiện dưới dạng vật chất nào. Chẳng hạn thơ hoặc nhạc là những tác phẩm ngay cả khi nó chưa được viết ra hoặc trước khi được ghi lại bằng các nốt nhạc hoặc từ ngữ. Luật pháp Việt nam quy định chỉ bảo hộ các tác phẩm được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định nào đó, như bài hát chỉ được bảo hộ một khi nó được ghi lại bằng nốt nhạc và lời trên khuôn nhạc (giấy) hoặc được ghi âm lại trên băng từ hay một phương tiện kỹ thuật khác (kỹ thuật số).
Ý tưởng được thể hiện trong tác phẩm không cần phải mới song cách thức thể hiện các ý tưởng này, cho dù là tác phẩm văn học hay nghệ thuật, phải là sự sáng tạo nguyên gốc của tác giả. Tác phẩm được bảo hộ không nhất thiết phải đáp ứng yêu cầu về tính sáng tạo và tính mới. Tác phẩm sẽ được bảo hộ bất kể chất lượng, giá trị cho dù được đánh giá là hay hoặc không hay, và cả mục đích mà tác phẩm hướng tới, và dù chúng không liên quan với lĩnh vực văn học, nghệ thuật hay khoa học. Bởi lẽ việc bảo hộ tác phẩm không căn cứ vào mục đích việc sử dụng tác phẩm.
Luật bản quyền chỉ bảo hộ việc thể hiện ý tưởng chứ không bảo hộ chính các ý tưởng đó. Sáng tạo được luật bản quyền bảo hộ là sự sáng tạo trong việc lựa chọn và sắp xếp các từ ngữ, nốt nhạc, mầu sắc và hình khối… Một điều khoản liệt kê, mang tính minh họa và không đầy đủ với ý nghĩa giới hạn, các đối tượng được bảo hộ được luật pháp bản quyền quy định.
Trên thực tế, luật bản quyền của tất cả các quốc gia quy định bảo hộ đối với các loại hình tác phẩm sau:
- Các tác phẩm văn học: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, tác phẩm sân khấu và các loại văn viết khác không kể nội dung gì (hư cấu hay không hư cấu), độ dài, mục đích (giải trí, giáo dục, thông tin, quảng cáo, tuyên truyền…), hình thức (viết tay, đánh máy, in, sách, tờ rơi, báo, tạp chí), được xuất bản hay không xuất bản;
- Tác phẩm âm nhạc: dòng nhạc nhẹ hay bác học: bài hát, đồng ca, opera, phổ nhạc, nhạc kịch hài; giáo khoa, giảng dạy âm nhạc, bất kể cho một nhạc cụ (solo), một nhóm nhạc cụ (sonata, nhạc thính phòng…), hoặc nhiều nhạc cụ (một ban nhạc, một dàn nhạc);
- Tác phẩm nghệ thuật tạo hình: hai chiều (như bức tranh, bản vẽ, bản khắc axit, tờ in li tô…) hoặc không gian ba chiều (điêu khắc, tác phẩm kiến trúc) bất kể nội dung (hiện thực hay trừu tượng…) và mục đích (“thuần tuý” nghệ thuật, quảng cáo…);
- Các hình vẽ kỹ thuật, bản đồ;
- Tác phẩm nhiếp ảnh: bất kể mục đích và đối tượng (chân dung, phong cảnh, sự kiện…);
- Phim ảnh (“tác phẩm điện ảnh”): kể cả phim câm hoặc phim có tiếng và bất kể mục đích của các bộ phim (triển lãm sân khấu, truyền hình…) thể loại (phim truyện, phim tài liệu, phim thời sự…) độ dài, phương pháp làm phim (phim “trực tiếp”, phim hoạt hình…) hay công nghệ áp dụng (phim nhựa, băng video, đĩa DVD…)
- Các chương trình máy tính (hoặc được bảo hộ như một tác phẩm văn học hoặc được bảo hộ như chính hình thức chương trình máy tính), cơ sở dữ liệu.
Luật bản quyền còn bảo hộ cả “các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng” (như đồ trang sức, đèn, giấy dán tường, đồ nội thất…) và các tác phẩm vũ đạo, các chương trình ghi âm dạng đĩa, băng từ và các chương trình để phát sóng cũng là các tác phẩm được bảo hộ.
Những ngoại lệ đối với quy định chung trong luật bản quyền được đề cập cụ thể như văn học nghệ thuật dân gian được bảo hộ theo các quy định riêng. Không được bảo hộ : Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin; Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó; Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.
Nội dung các quyền tác giả
Chủ sở hữu các quyền tác giả đối với một tác phẩm được bảo hộ có toàn quyền định đoạt việc sử dụng tác phẩm của mình nhưng không phải là không tính đến quyền và lợi ích được công nhận hợp pháp của người khác và quyền ngăn cấm người khác sử dụng tác phẩm này mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu các quyền tác giả.
Do vậy, các quyền mà luật pháp dành cho chủ sở hữu các quyền tác giả đối với một tác phẩm đã được bảo hộ thường được coi là các “độc quyền”, được thực hiên thông qua việc cho phép người khác sử dụng tác phẩm được bảo hộ hoặc ngăn cấm người khác sử dụng tác phẩm này nếu không được sự đồng ý của mình.Tác giả nguyên gốc của một tác phẩm được luật bản quyền bảo hộ có các “quyền tinh thần hay nhân thân” ngoài những độc quyền về mặt kinh tế.
Vậy như thế nào là “sử dụng” một tác phẩm được luật bản quyền bảo hộ? Luật quyền tác giả quy định các hành vi liên quan tới một tác phẩm mà những người khác không phải là chủ sở hữu không thể thực hiện nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu tác phẩm.
Những hoạt động đòi hỏi phải có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả thường bao gồm: sao chép hoặc tạo bản sao tác phẩm, trình diễn tác phẩm nơi công cộng, thu thanh tác phẩm, dựng phim, phát thanh tác phẩm, dịch và chuyển thể tác phẩm.
Quyền tạo bản sao và các quyền liên quan
Quyền của chủ sở hữu tác phẩm không cho phép người khác tạo ra bản sao của tác phẩm của mình là quyền cơ bản nhất trong quyền tác giả. Ví dụ, việc nhân bản một tác phẩm đã được bảo hộ là hoạt động của nhà xuất bản, để phổ biến tới công chúng các bản sao của tác phẩm viết, các bản sao này có thể dưới dạng ấn phẩm hoặc dạng phương tiện truyền thông kỹ thuật số như đĩa CD. Tương tự như vậy, quyền của một nhà sản xuất băng đĩa ghi âm sản xuất và phân phối những đĩa CD có mang chứa bản ghi những tiết mục biểu diễn một tác phẩm âm nhạc, phải căn cứ trên sự cho phép của tác giả tác phẩm mới được tái tạo tác phẩm của tác giả qua các bản ghi âm đó. Vì vậy, quyền kiểm soát hoạt động tạo bản sao, nhân bản là cơ sở pháp lý cho nhiều hoạt động khai thác khác các tác phẩm được bảo hộ.
Những quyền khác cũng được công nhận nhằm đảm bảo rằng quyền cơ bản nhất này trong việc tạo bản sao được tôn trọng. Ví dụ, quyền cho phép phân phối bản sao của tác phẩm. Quyền phân phối thường được coi là chấm dứt, cạn kiệt hay mãn quyền sau khi đã bán lần đầu tiên một bản sao cụ thể tác phẩm, ví dụ sau khi người có quyền phân phối đã bán một bản sao cụ thể của một tác phẩm, thì chủ sở hữu tiếp theo bản sao đó có thể tùy ý sử dụng bản sao mà không cần sự cho phép của người có quyền phân phối ban đầu, ví dụ, có thể bán lại hoặc thậm chí cho bản sao đó.
Một quyền khác có nguồn gốc từ quy định của Hiệp định TRIPS (phần 5.241), là quyền cho phép đem cho thuê bản sao của một số loại hình tác phẩm nhất định, chẳng hạn như các tác phẩm âm nhạc ở dạng chương trình ghi âm, tác phẩm nghe nhìn và chương trình máy tính. Quyền đối với việc đem cho thuê này được quy định vì những tiến bộ kỹ thuật đã khiến cho việc sao chép các loại tác phẩm này rất dễ dàng, đặc biệt là với kỹ thuật số việc tạo ra bản sao là vô cùng nhanh chóng và không còn bị suy giảm chất lượng do sao chép. Kinh nghiệm cho thấy khách hàng của những cửa hàng cho thuê đã tạo ra những bản sao, và vì vậy, quyền giám sát hoạt động cho thuê là cần thiết để ngăn chặn việc xâm phạm đến quyền tạo bản sao, nhân bản của chủ sở hữu quyền tác giả.
Cuối cùng, luật bản quyền cũng đưa ra quyền kiểm soát việc nhập khẩu các bản sao như một công cụ để ngăn chặn hiện tượng xói mòn nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả theo lãnh thổ. Vì lợi ích kinh tế hợp pháp của chủ sở hữu bản quyền sẽ bị đe dọa nếu chủ sở hữu bản quyền không thể thực hiện việc kiểm soát và ngăn chặn ngay tại biên giới việc đưa các bản sao trái phép tác phẩm của mình xâm nhập vào lãnh thổ mà phải chờ đến khi chúng được đưa ra bán và phân phối trên thị trường nội địa.
Quyền biểu diễn
Một hoạt động khác cũng đòi hỏi phải được sự đồng ý của tác giả là hoạt động biểu diễn nơi công cộng – ví dụ như diễn xướng, ngâm, đọc nơi công cộng, biểu diễn kịch và nhạc trước khán giả. Quyền kiểm soát hoạt động công diễn này không chỉ vì quyền lợi của chủ sở hữu các quyền tác giả đối với tác phẩm gốc có thể vốn được sáng tác ra để công diễn mà còn vì lợi ích của những người có quyền tác giả do tác giả chuyển nhượng mà có hoặc những người được tác giả cho phép, khi có những bên thứ ba khác muốn tổ chức công diễn tác phẩm mà vốn được dự định cho việc xuất bản và tái tạo, nhân bản. Chẳng hạn như một câu chuyện vốn được viết để đọc tại nhà hoặc tại thư viện có thể được cải biến (“chuyển thể”) thành một vở kịch để biểu diễn trước công chúng trên sân khấu một nhà hát.
Quyền ghi âm
Hoạt động thứ ba được xem xét là hoạt động ghi âm một tác phẩm được luật bản quyền bảo hộ. Đối với âm nhạc, bản ghi âm là phương tiện phổ biến nhất, thuận tiện nhất để truyền đạt tác phẩm tới đông đảo công chúng. Bản ghi âm này còn có tác dụng phục vụ cho tác phẩm âm nhạc giống như sách đối với các tác phẩm văn học.
Các bản ghi âm có thể chỉ ghi riêng phần nhạc, riêng phần lời hoặc cả phần nhạc và phần lời. Chủ sở hữu quyền tác giả đối với một tác phẩm phần nhạc cũng như chủ sở hữu quyền tác giả đối với một phần lời bài hát đều có quyền cho phép việc ghi âm, trường hợp thu thanh cả hai phần nhạc và lời thì người ghi âm phải được sự đồng ý của cả hai chủ sở hữu.
Ngoài ra người ghi âm cũng phải được sự cho phép của các nghệ sỹ biểu diễn là nhạc công và ca sĩ hoặc nghệ sĩ trình xướng phần lời, theo quy định về quyền của các nghệ sĩ biểu diễn như sẽ được trình bày ở phần về quyền liên quan dưới đây.
Quyền dựng phim
“Phim ảnh” là bản ghi hình ảnh, mang đến cho người xem một ấn tượng về sự chuyển động. Theo thuật ngữ của luật bản quyền “phim” thường được gọi là một “tác phẩm điện ảnh” hay một “tác phẩm nghe nhìn” vì ngày nay người ta có thể sử dụng cả các phương pháp kỹ thuật mới để làm phim (như băng từ, kỹ thuật số) mà không cần dùng tới phim nhựa.
Quyền phát sóng
Một vở kịch được viết để các diễn viên biểu diễn ngay trước các khán giả (biểu diễn trực tiếp) có thể được ghi hình và chiếu cho số lượng khán giả đông hơn nhiều so với số lượng khán giả có mặt tại buổi biểu diễn, những khán giả này có thể xem hình ảnh này ở những nơi cách xa nơi biểu diễn trực tiếp, và vào các thời điểm khác, muộn hơn.
Lĩnh vực hoạt động này cũng được luật bản quyền kiểm soát bao gồm những hoạt động phát sóng và truyền đạt tác phẩm tới công chúng bằng các phương tiện hữu tuyến hoặc bằng cáp.
Khi một tác phẩm được phát sóng, tín hiệu được phát trong không gian nên bất kỳ ai trong vùng phủ sóng cũng có thể thu nhận được khi có thiết bị thích hợp (radio hoặc máy thu hình) cần thiết để chuyển tín hiệu nhận được thành âm thanh hoặc âm thanh và hình ảnh.
Khi một tác phẩm được chuyển tải tới công chúng bằng đường cáp hoặc tín hiệu mã hóa, chỉ những người có thiết bị đầu nối với dây cáp dùng để truyền tín hiệu hoặc chỉ những ai có thiết bị giải mã mới thu được tín hiệu truyền đi.
Theo nguyên tắc của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, chủ sở hữu quyền tác giả đối với một tác phẩm/bản quyền có độc quyền cho phép phát sóng vô tuyến và truyền đi tác phẩm của họ qua đường cáp.
Việc phát sóng và truyền tín hiệu bằng cáp các tác phẩm ngày nay phổ biến việc sử dụng các vệ tinh ngoài không gian để mở rộng phạm vi phủ sóng tín hiệu vô tuyến, tăng khả năng thu sóng của thiết bị radio và máy thu hình các tín hiệu truyền qua đường cáp, việc sử dụng ngày càng nhiều các thiết bị có khả năng ghi lại chương trình âm thanh và hình được phát sóng và truyền tải qua đường cáp.
Quyền dịch và chuyển thể
Việc dịch hoặc chuyển thể một tác phẩm được luật bản quyền bảo hộ phải được sự cho phép của chủ sở hữu tác phẩm .
“Dịch” nghĩa là việc diễn đạt một tác phẩm bằng ngôn ngữ khác với ngôn ngữ của nguyên bản.
“Chuyển thể” thường được hiểu là việc biến đổi tác phẩm từ thể loại này sang thể loại khác, như việc chuyển thể một cuốn tiểu thuyết để làm phim hoặc chuyển thể một tác phẩm để phù hợp với những điều kiện khai thác khác nhau, ví dụ như việc biên soạn lại cho phù hợp một cuốn sách giáo khoa dùng cho bậc đào tạo cao hơn thành một cuốn sách giáo khoa dùng cho học sinh, sinh viên ở cấp thấp hơn.
Bản thân chính các tác phẩm dịch và chuyển thể cũng được luật bản quyền bảo hộ. Do vậy, để tạo bản sao và nhân bản và xuất bản một tác phẩm dịch hoặc chuyển thể, nhà xuất bản phải được sự đồng ý của cả chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm nguyên bản lẫn chủ sở hữu quyền tác giả đối với bản dịch hoặc tác phẩm chuyển thể.
Quyền nhân thân
Luật pháp về quyền tác giả dành cho các tác giả: quyền được yêu cầu công nhận tư cách là tác giả tác phẩm; quyền phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa chữa tác phẩm, hoặc những hành vi vi phạm khác liên quan tới tác phẩm có thể làm phương hại tới danh dự hoặc uy tín của tác giả.
Nhìn chung những quyền được gọi là quyền nhân thân của tác giả thường độc lập với các quyền về tài sản và vẫn thuộc về tác giả, ngay cả sau khi tác giả đã chuyển nhượng các quyền tài sản.
6. Chuyển nhượng quyền tác giả; chủ sở hữu quyền tác giả
Quyền sở hữu quyền tác giả
Chủ sở hữu quyền tác giả đối với một tác phẩm ít nhất là vào giây phút đầu tiên ngay khi tác phẩm được sáng tạo ra thường chính là người đã sáng tạo ra tác phẩm – nghĩa là tác giả của tác phẩm.
Nguyên tắc này có thể có những ngoại lệ. Ví dụ có luật pháp quy định rằng nếu một tác phẩm do một tác giả được thuê (theo hợp đồng lao động hoặc theo hợp đồng đặt hàng sáng tác) để sáng tạo tác phẩm đó, thì người thuê, sử dụng lao động là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm, chứ không phải là tác giả.
Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng “các quyền nhân thân” luôn thuộc về tác giả của tác phẩm, bất kể ai là chủ sở hữu quyền tác giả.
Các quyền tài sản trong các quyền tác giả và theo luật pháp Việt Nam còn có thêm quyền công bố tác phẩm (được luật pháp Việt Nam coi là quyền nhân thân) có thể được chuyển nhượng. Điều này có nghĩa là chủ sở hữu quyền tác giả chuyển nhượng một hay một vài hay toàn bộ các quyền tác giả cho một cho cá nhân hay tổ chức khác, những người này khi đó có thể trở thành chủ sở hữu quyền tác giả.
Tuy nhiên, có một phương thức khác với hiệu lực thực tế rất gần với việc chuyển nhượng đó là hình thức thỏa thuận hợp đồng cho phép sử dụng (cấp li-xăng). Cấp li-xăng có nghĩa là chủ sở hữu quyền tác giả vẫn là chủ sở hữu nhưng cho phép người khác sử dụng toàn bộ hay một phần quyền trong các điều kiện giới hạn nhất định. Khi việc cho phép hay cấp li-xăng như vậy kéo dài hết thời hạn bảo hộ quyền tác giả và việc cho phép hay cấp li-xăng là đối với tất cả các quyền (tất nhiên là ngoại trừ các quyền nhân thân) được luật bản quyền bảo hộ, thì người được cấp li-xăng, trước các bên thứ ba có cùng địa vị pháp lý như chủ sở hữu quyền tác giả.
7. Các ngoại lệ, hạn chế quyền tác giả
Các giới hạn đối với bảo hộ quyền tác giả
Thời hạn
Việc bảo hộ quyền tác giả không kéo dài vô thời hạn. Luật pháp quy định một khoảng thời gian, thời hạn trong đó quyền của người sở hữu quyền tác giả có giá trị hiệu lực pháp lý.
Khoảng thời gian hay thời hạn của bản quyền bắt đầu kể từ ngày tác phẩm được sáng tạo ra và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định.
Thời hạn đó kéo dài cho đến một thời điểm nhất định thuộc giai đoạn sau khi tác giả qua đời. Mục đích của quy định pháp luật này là nhằm cho phép những người thừa kế của tác giả được hưởng những lợi ích kinh tế sau khi tác giả qua đời. Điều này cũng bảo vệ cho đầu tư đã thực hiện trong việc xuất bản và phổ biến tác phẩm.
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả do luật pháp quy định, và phổ biến trên thế giới, là trong suốt cuộc đời tác giả (sinh thời) và cộng thêm (không ít hơn) 50 năm sau khi tác giả qua đời. Trong giai đoạn gần đây, hiện đang có một xu hướng mới là kéo dài thời gian bảo hộ.
Lãnh thổ
Giới hạn thứ hai là giới hạn về mặt địa lý lãnh thổ. Chủ sở hữu bản quyền tác giả đối với một tác phẩm được luật pháp của một quốc gia bảo hộ chống lại những hành vi bị luật bản quyền quốc gia này ngăn cấm tại quốc gia đó. Để bảo hộ chống lại những hành vi tương tự thực hiện tại quốc gia khác, chủ sở hữu phải căn cứ vào luật pháp của nước đó. Nếu cả hai nước đều là thành viên của một trong những Công ước quốc tế về bản quyền thì những vấn đề nảy sinh từ sự giới hạn về mặt lãnh thổ sẽ được giải quyết thuận lợi.
Việc sử dụng được phép
Một số hành vi nhất định thông thường lẽ ra bị luật bản quyền ngăn cấm, có thể được thực hiện trong một số trường hợp do luật pháp quy định cụ thể, mà không cần phải có sự đồng ý của chủ sở hữu bản quyền tác giả. Có thể lấy một số ví dụ minh họa cho những ngoại lệ này như “sử dụng chính đáng” (fair use). Những ví dụ này gồm có việc sao chép một tác phẩm chỉ nhằm riêng cho mục đích sử dụng cá nhân của chính người thực hiện việc sao chép, một ví dụ khác là trích dẫn một tác phẩm được bảo hộ, miễn sao nguồn để trích dẫn phải được dẫn chiếu như bao gồm tên của tác giả và với điều kiện phạm vi trích dẫn phù hợp với thông lệ và theo đúng quy định.
Các hạn chế khác
Ngoài những ngoại lệ dựa trên nguyên tắc “sử dụng chính đáng” còn có một số ngoại lệ khác được quy định trong luật pháp ví dụ cho phép phát sóng các tác phẩm được bảo hộ mà không cần phải được sự cho phép, miễn là phải trả phí bản quyền cho chủ sở hữu bản quyền tác giả. Hệ thống này, theo đó quyền hưởng phí bản quyền có thể thay thế cho độc quyền cho phép một hành vi sử dụng riêng biệt được gọi là hệ thống “li-xăng bắt buộc”. Những li-xăng này được gọi là “bắt buộc” vì nó là kết quả của việc thi hành quy định luật pháp chứ không do việc thực hiện độc quyền của chủ sở hữu bản quyền tác giả.
Các quyền liên quan
Các quyền liên quan tới, hoặc “kề cận” với quyền tác giả thường được gọi tắt là “các quyền liên quan” hay “quyền kề cận”.
Có ba loại quyền liên quan, đó là : quyền của nghệ sỹ biểu diễn đối với chương trình biểu diễn của họ, quyền của nhà sản xuất chương trình ghi âm đối với bản ghi âm của họ, quyền của các tổ chức phát sóng đối với các chương trình phát thanh và truyền hình của họ.
Việc bảo hộ những người làm cho sản phẩm trí tuệ của các tác giả được truyền bá và phổ biến tới đông đảo công chúng được thực hiện thông qua các quyền liên quan.
Các tác phẩm trí tuệ được sáng tạo để được phổ biến càng rộng càng tốt tới công chúng. Hầu hết việc phổ biến không thể do bản thân tác giả đảm đương, bởi nó đòi hỏi những người chuyên nghiệp có năng lực đem lại cho tác phẩm cách thức trình bày thích hợp để tiếp cận với đông đảo người thưởng thức. Chẳng hạn, một vở kịch cần được biểu diễn trên sân khấu, một bài hát phải được các nghệ sỹ trình diễn, tác phẩm gốc phải được tái hiện, tạo ra bản sao dưới hình thức bản ghi âm hoặc truyền đi bằng các phương tiện truyền thanh. Tất cả những ai sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học và làm cho các tác phẩm này có thể được tiếp cận bởi quần chúng cũng phải có được sự bảo hộ dành riêng cho họ nhằm chống lại việc khai thác bất hợp pháp những đóng góp của họ.
Việc bảo hộ lợi ích của các tác giả không chỉ đơn thuần bao gồm việc ngăn chặn việc sử dụng trái phép những sáng tạo của họ và cũng không thể giới hạn trong việc ngăn chặn các hành vi vi phạm những quyền mà luật pháp dành cho tác giả. Các tác phẩm của họ phải được sử dụng nhằm phổ biến tới đông đảo quần chúng. Mỗi hình thức tác phẩm khác nhau được đưa đến công chúng theo các cách khác nhau. Một nhà xuất bản nhân bản một bản thảo ở hình thức cuối cùng của bản thảo đó mà không thêm bớt vào hình thức thể hiện tác phẩm của tác giả. Quyền lợi của nhà xuất bản sách được bảo hộ bằng chính luật bản quyền và pháp luật đã công nhận rằng bản quyền chính là sự khuyến khích quan trọng nhất đối với việc sáng tạo cũng như cơ sở kinh tế cho hoạt động xuất bản.
Vấn đề trên có một số điểm khác đối với tác phẩm sân khấu và nhạc kịch, kịch câm hoặc các thể loại tác phẩm sáng tạo khác nhằm tới sự thưởng ngoạn bằng thị giác hay thính giác. Khi những tác phẩm này được truyền đạt tới công chúng, chúng phải được những người biểu diễn tái hiện hoặc trình diễn hoặc diễn xướng. Trong những trường hợp này, cần phải tính đến lợi ích của chính những người biểu diễn đối với việc sử dụng diễn xuất của riêng họ trong việc trình diễn tác phẩm.
Vấn đề đặt ra đối với nhóm người chuyên nghiệp này ngày càng trở nên gay gắt cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ. Thời đại mà khi buổi biểu diễn của các nghệ sỹ trình diễn, diễn viên kịch hay của các nhạc công sẽ chấm dứt cùng với vở diễn hay buổi hòa tấu đó như trước đây, thì ngày nay, với đĩa hát, rađio, phim ảnh, truyền hình, video và vệ tinh, điều này không còn nữa. Sự phát triển của các công nghệ này đã tạo ra khả năng ghi, lưu định lại các buổi biểu diễn dưới những phương tiện đa dạng như đĩa hát, băng cát sét, băng từ, phim, kỹ thuật số… Nếu trước đây, một buổi biểu diễn được tổ chức tại một hội trường với một lượng khán giả hạn chế vốn mang tính khu biệt tại chỗ và trực tiếp thì ngày nay không còn các giới hạn này nữa và ngày càng trở thành một sự thể hiện thường trực có khả năng được tái hiện, lặp đi lặp lại với số lần không hạn chế và trình diễn cho một lượng khán giả không hạn chế đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Sự phát triển của hoạt động phát thanh và truyền hình giai đoạn vừa qua cũng đã đưa đến những kết quả tương tự.
Những tiến bộ công nghệ này, đưa đến khả năng tái hiện từng buổi biểu diễn của những nghệ sỹ biểu diễn là hoàn toàn có thể mà không cần sự có mặt của các nghệ sỹ, người sử dụng cũng không buộc phải thỏa thuận với các nghệ sỹ, đã khiến cho số lượng các buổi biểu diễn trực tiếp ngày càng giảm đi, có thể dẫn đến thất nghiệp kỹ thuật đối với các nghệ sỹ chuyên nghiệp, vì vậy cần phải xem xét và mở rộng phạm vi bảo hộ cho quyền lợi của những người biểu diễn.
Sự phát triển công nghệ không ngừng của công nghệ ghi âm, đĩa hát và cát-sét (casette), mà gần đây là đĩa CD, kỹ thuật số và sự phát triển nhanh chóng của chúng đã làm rõ nhu cầu bảo hộ các nhà sản xuất chương trình ghi âm. Cũng như những người biểu diễn tìm kiếm sự bảo hộ cho riêng họ, các nhà sản xuất chương trình ghi âm vận động để được bảo hộ chống lại việc sao chép trái phép các chương trình ghi âm của họ cũng như việc trả phí bản quyền cho việc sử dụng các chương trình thu thanh của họ vào mục đích phát thanh, truyền hình hay mọi hình thức truyền tải khác tới công chúng.
Cuối cùng là lợi ích của các tổ chức phát sóng đối với chính những chương trình của họ, do họ biên tập, làm ra. Các tổ chức phát sóng yêu cầu có sự bảo hộ dành riêng cho các chương trình này cũng như chống lại việc các tổ chức đồng nghiệp khác phát lại các chương trình của họ.
Tóm lại, về nội dung trên bao gồm ba quyền cơ bản sau đây:
– Quyền của người biểu diễn ngăn cấm việc thu, ghi, lưu định, phát sóng truyền trực tiếp hay truyền tới công chúng, buổi biểu diễn của họ mà không được họ cho phép;
– Quyền của các nhà sản xuất chương trình ghi âm cho phép hoặc không cho phép tái tạo, nhân bản các chương trình của họ và nhập khẩu, phân phối các phiên bản chương trình ghi âm được nhân bản, sao chép bất hợp pháp;
– Quyền của các tổ chức phát thanh truyền hình cho phép hoặc không cho phép phát lại, ghi lưu và làm bản sao chương trình phát thanh truyền hình của họ.
Luật pháp cũng dành cho người biểu diễn các quyền nhân thân để bảo hộ chống lại việc xuyên tạc, bóp méo các buổi biểu diễn của họ và dành cho họ quyền được nêu tên trong các buổi biểu diễn.
Tuy nhiên, không thể có một sự bảo hộ bất kỳ quyền liên quan nào được diễn giải theo cách quyền này có thể hạn chế hay gây thiệt hại tới các bảo hộ dành cho các tác giả hoặc những người được hưởng các quyền liên quan khác theo quy định của luật pháp.
Quy định bảo hộ người biểu diễn nhằm đảm bảo lợi ích của các diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công hay người tham gia biểu diễn, hát, xướng, đọc, bình luận hay nhập vai, biểu diễn các tác phẩm văn học nghệ thuật, kể cả các tác phẩm dân gian, chống lại việc sử dụng bất hợp pháp trình diễn của họ.
“Nhà sản xuất chương trình ghi âm” là một cá nhân hay một pháp nhân ghi âm bản ghi đầu tiên (bản gốc – master) một tiết mục biểu diễn hoặc chương trình âm thanh. Bản ghi đầu tiên có nghĩa là sự hiện thân nguyên bản dưới dạng vật chất âm thanh của một buổi biểu diễn trực tiếp hay bất kỳ âm thanh nào khác mà không được sao chép lại từ một bản ghi âm đã có trước, trên những chất liệu như băng, đĩa hay bất kỳ phương tiện công nghệ phù hợp nào khác cho phép ta có thể được thưởng ngoạn, tái hiện hay truyền tải lặp đi lặp lại. Thực hiện bản ghi âm đầu tiên khác với việc xuất bản chương trình ghi âm lần đầu tiên này. Một bản sao của chương trình ghi âm là vật phẩm bất kỳ mang chứa âm thanh sao chép từ một chương trình ghi âm và thể hiện tất cả hay một phần cơ bản các âm thanh được ghi trong chương trình đó. Các đĩa ghi âm (đĩa), băng từ, cassette từ, và đĩa compact là những phiên bản sao chép chương trình ghi âm.
Phát sóng thường được hiểu là hình thức truyền âm thanh và/hoặc hình ảnh bằng sóng radio tới công chúng. Một chương trình phát sóng là bất kỳ chương trình nào được truyền bằng hình thức phát sóng, hay nói cách khác truyền qua các phương tiện vô tuyến (kể cả truyền tín hiệu vệ tinh…) để công chúng thu nhận âm thanh và hình ảnh.
Việc truyền tới công chúng bằng đường dây hữu tuyến thường được hiểu là việc truyền đi một tác phẩm, một buổi biểu diễn, một chương trình thu thanh hay phát sóng âm thanh hoặc hình ảnh thông qua mạng lưới cáp tới các máy thu, không giới hạn vào những cá nhân cụ thể thuộc một nhóm riêng biệt nào.
Việc phát lại là việc hoặc tiếp sóng đồng thời một chương trình đang được thu từ một nguồn khác, hay việc phát một chương trình đã được ghi lại từ một chương trình đã được phát, nhưng nay mới phát lại.
Cuối cùng, trong đời sống văn hoá dân tộc, di sản văn hoá nghệ thuật được nhìn nhận là có tầm quan trọng đặc biệt. Quyền liên quan dành sự bảo hộ cho những người đã đóng góp vào việc thể hiện, trình diễn và phổ biến di sản đó. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển nơi có truyền thống chủ yếu là truyền miệng và tác giả cũng thường đồng thời là người biểu diễn. Trong bối cảnh này, vị trí của tác phẩm văn hóa dân gian luôn được đánh giá, và quyền lợi của các nghệ sỹ trình diễn, và thông qua sự trình diễn của họ thực hiện việc lưu giữ vốn văn hóa dân gian, phải được bảo vệ mỗi khi có việc sử dụng, khai thác việc trình diễn này. Và cũng thông qua việc bảo hộ người sản xuất các chương trình thu thanh, ngoài việc là cơ sở cho việc hình thành một nền công nghiệp văn hóa (giải trí) đảm bảo phổ biến nền văn hoá dân tộc cả ở trong nước và trên thế giới, còn có thể tạo thêm một nguồn thu đáng kể. Phần đóng góp của các tổ chức phát thanh truyền hình là không thể bỏ qua và cũng như không thể coi nhẹ quyền lợi của các tổ chức này khi bảo hộ các chương trình của họ chống lại việc phát lại, tái tạo, nhân bản và truyền tải tới công chúng một cách bất hợp pháp.
Phần IV. Các điều ước quốc tế
1. Các công ước
1.1. Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật
Công ước BERNE là công ước bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật ký kết tại BERNE, Thuỵ Sỹ vào năm 1886. Công ước đã được sửa đổi tại Paris năm 1896 và tại Berlin năm 1908, hoàn thiện tại BERNE năm 1914, sửa đổi tại Rome năm 1928, tại Brussels năm 1948, tại Stockholm năm 1967, tại Paris năm 1971, và được bổ sung vào năm 1979.
Văn kiện hiện hành là văn kiện Paris, ngày 24.07.1971 được bổ sung ngày 2.10.1979.
Nội dung
Công ước đặt ra ba nguyên tắc cơ bản và gồm một loạt các quy định xác định sự bảo hộ tối thiểu cũng như các quy định đặc biệt dành cho các nước đang phát triển.
Ba nguyên tắc gồm
Nguyên tắc đối xử quốc gia: việc bảo hộ tác phẩm có nguồn gốc từ các quốc gia thành viên của Công ước tương tự như sự bảo hộ tác phẩm của công dân chính quốc gia mình (tác phẩm có nguồn gốc từ các quốc gia thành viên của Công ước là tác phẩm mà tác giả của tác phẩm là công dân của một nước thành viên hoặc tác phẩm được công bố tại một nước thành viên);
Nguyên tắc bảo hộ đương nhiên: quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định không lệ thuộc vào bất kỳ thủ tục hình thức nào như đăng ký, nộp lưu chiểu hoặc các thủ tục tương tự;
Nguyên tắc bảo hộ độc lập: việc hưởng và thực thi các quyền theo công ước là độc lập với những gì hiện được hưởng tại nước xuất xứ của tác phẩm. Tuy nhiên, nếu một nước thành viên có quy định thời hạn bảo hộ dài hơn quy định tối thiểu nêu trong Công ước và tác phẩm chấm dứt được bảo hộ tại nước xuất xứ, sự bảo hộ có thể bị từ chối (tại nước có thời hạn bảo hộ dài hơn này) khi sự bảo hộ tại nước xuất xứ đã kết thúc.
Tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu, các quyền được bảo hộ và thời hạn bảo hộ
Về các tác phẩm: Sự bảo hộ bao gồm “mọi tác phẩm thuộc lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học được định hình dưới một dạng vật chất nhất định, không phân biệt hình thức và cách thức thể hiện”;
Về các quyền được bảo hộ: tuỳ thuộc vào các giới hạn, hạn chế và ngoại lệ cụ thể được phép, các quyền sau đây phải được công nhận là các quyền độc quyền cho phép:
– Quyền dịch thuật;
– Quyền thực hiện phóng tác và chuyển thể tác phẩm;
– Quyền trình diễn công cộng tác phẩm kịch, nhạc kịch và âm nhạc;
– Quyền trần thuật công cộng tác phẩm văn học;
– Quyền truyền thông công cộng trình diễn các tác phẩm;
– Quyền phát sóng (với khả năng là quốc gia thành viên chỉ quy định quyền trả thù lao phù hợp thay vì quyền cho phép);
– Quyền làm bản sao bằng bất kỳ cách thức hoặc hình thức nào (với khả năng là các quốc gia thành viên quy định, trong các trường hợp đặc biệt cụ thể, cho phép làm bản sao mà không có sự cho phép với điều kiện là việc làm bản sao đó không ảnh hưởng tới sự khai thác bình thường tác phẩm và không phương hại bất hợp lý đến các lợi ích hợp pháp của tác giả, và với khả năng là các quốc gia thành viên quy định, đối với các bản ghi âm tác phẩm âm nhạc, quyền nhận thù lao thoả đáng);
– Quyền cho sử dụng tác phẩm làm nền của tác phẩm nghe nhìn, và quyền làm bản sao, phân phối và trình diễn công cộng hoặc truyền thông tới công chúng tác phẩm nghe nhìn đó;
– Quyền “Droit de suit” đối với tác phẩm mỹ thuật và bản gốc;
– Các quyền tinh thần gồm: quyền đứng tên tác giả của tác phẩm và quyền phản đối bất kỳ sự cắt xén, bóp méo hoặc sửa đổi tác phẩm, hoặc các hành vi xúc phạm khác liên quan tới tác phẩm mà có thể phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Về thời hạn bảo hộ: nguyên tắc chung là bảo hộ trong suốt thời gian của cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Tuy nhiên, có những ngoại lệ như đối với các tác phẩm điện ảnh, thời hạn bảo hộ là 50 năm tính từ khi tác phẩm được công bố hoặc từ khi tác phẩm được sáng tạo nếu tác phẩm chưa được công bố. Đối với các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và các tác phẩm nhiếp ảnh, thời hạn bảo hộ tối thiểu là 25 năm kể từ khi tác phẩm được sáng tạo.
Đối với các quốc gia được coi là nước đang phát triển, Công ước có các quy định ưu đãi, miễn trừ về quyền dịch thuật và quyền làm bản sao đối với một số loại tác phẩm và theo các điều kiện cụ thể.
Quản lý và gia nhập công ước
Liên hiệp BERNE có một Đại hội đồng và Uỷ ban điều hành. Các quốc gia thành viên của Liên hiệp đã tham gia vào các quy định quản lý và tài chính của Luật Stockholm đều là thành viên của Đại hội đồng. Các thành viên của Uỷ ban điều hành được bầu trong số các thành viên của Liên hiệp, ngoại trừ Thuỵ Sỹ là thành viên đương nhiên. Việc lập chương trình và ngân sách hai năm của Văn phòng quốc tế – thuộc về Liên hiệp BERNE – là nhiệm vụ của Đại hội đồng.
Công ước này để mở cho tất cả các nước. Văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hoặc tham gia phải được nộp tới Tổng giám đốc của WIPO.
Việt Nam trở thành thành viên của Công ước này vào ngày 26/10/2004 và đến nay có khoảng 160 quốc gia là thành viên của công ước.
1.2. Công ước Rome
Công ước Rome là Công ước bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng. Công ước này được ký kết ngày 26/10/1961 tại Rome vì vậy còn được gọi là Công ước Rome.
Nội dung công ước
Công ước Rome bảo đảm sự bảo hộ đối với các tiết mục biểu diễn của người biểu diễn, các bản ghi âm của các nhà sản xuất bản ghi âm và các buổi phát sóng của các tổ chức phát sóng.
Người biểu diễn (các diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công, và những người khác biểu diễn các tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật) được bảo hộ chống lại các hành vi cụ thể không được sự đồng ý của họ. Các hành vi này gồm:
Phát sóng và truyền đạt tới công chúng tiết mục biểu diễn trực tiếp của họ; định hình (ghi) các tiết mục biểu diễn trực tiếp của họ; sao chép các bản định hình này nếu các bản định hình gốc đã được tạo ra không có sự đồng ý của họ hoặc nếu việc sao chép này được thực hiện nhằm các mục đích khác với các mục đích mà họ đã đồng ý.
Nhà sản xuất bản ghi âm được hưởng quyền cho phép hoặc ngăn cấm trực tiếp hoặc gián tiếp sao chép các bản ghi âm của họ.
Các bản ghi âm được định nghĩa trong Công ước Rome theo nghĩa là bất kỳ sự lưu định (ghi) để có thể nghe lại các âm thanh của tiết mục biểu diễn hoặc các âm thanh khác nào.
Khi các bản ghi âm được công bố nhằm mục đích thương mại dẫn đến các sử dụng thứ phát (như là phát sóng hoặc truyền đạt tới công chúng bằng bất kỳ hình thức nào), một khoản phí tương xứng phải được những người sử dụng thanh toán cho những người biểu diễn, hoặc cho những nhà sản xuất bản ghi âm, hoặc cho cả hai; tuy nhiên, từng quốc gia thành viên được lựa chọn không áp dụng quy định này hoặc giới hạn việc áp dụng quy định này.
Tổ chức phát sóng được hưởng quyền cho phép hoặc ngăn cấm các hành vi cụ thể như sau:
– Tái phát sóng buổi phát sóng của họ;
– Định hình (ghi) buổi phát sóng của họ;
– Sao chép các bản định hình này;
– Truyền đạt đến công chúng các buổi phát sóng truyền hình nếu việc truyền đạt này được thực hiện tại nơi để mở cho công chúng tham dự bằng việc thanh toán phí vào cửa.
Ngoại lệ: Công ước Rome cho phép những ngoại lệ trong luật pháp quốc gia đối với các quyền nêu trên như sử dụng cá nhân, sử dụng các trích đoạn ngắn trong việc đưa tin thời sự, lưu định (ghi) thử của các tổ chức phát sóng bằng các phương tiện tại các cơ sở của tổ chức họ và phục vụ cho việc phát sóng của chính tổ chức họ, sử dụng chỉ nhằm mục đích giảng dậy hoặc nghiên cứu khoa học và trong các trường hợp khác – ngoại trừ các giấy phép bắt buộc mà có thể không phù hợp với Công ước Berne – trong đó luật pháp quốc gia có thể quy định các ngoại lệ về quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Ngoài ra, một khi người biểu diễn đã đồng ý đưa tiết mục biểu diễn của mình vào một bản lưu định nghe nhìn, các quy định về các quyền của người biểu diễn trong trường hợp này sẽ không còn được tiếp tục áp dụng nữa.
Thời hạn bảo hộ: Sự bảo hộ phải kéo dài ít nhất cho đến khi kết thúc thời hạn 20 năm tính từ khi kết thúc năm mà: (a) bản lưu định đã được tạo ra, đối với bản ghi âm và đối với các tiết mục biểu diễn được ghi trong đó; (b) tiết mục biểu diễn được thực hiện, đối với các tiết mục biểu diễn không được đưa vào trong bản ghi âm; (c) buổi phát sóng được thực hiện đối với các buổi phát sóng. (Tuy nhiên, luật pháp quốc gia vẫn thường quy định thời hạn bảo hộ là 50 năm, ít nhất là đối với bản ghi âm và đối với các tiết mục biểu diễn.)
Quản lý và gia nhập công ước: Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) đồng trách nhiệm quản lý Công ước cùng với Tổ chức Văn hoá, Giáo dục và Khoa học của Liên Hợp Quốc (UNESCO) và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Các tổ chức đồng quản lý chỉ định ban thư ký của Uỷ ban Liên Chính phủ được thành lập theo Công ước Rome gồm đại diện của 12 quốc gia ký kết. Uỷ ban liên chính phủ có nhiệm vụ xem xét và giải quyết các vấn đề liên quan đến Công ước.
Công ước để mở cho các nước là thành viên của Công ước Berne hoặc Công ước quyền tác giả toàn cầu (UCC). Văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập phải được nộp cho Tổng thư ký Liên hợp quốc. Các nước có thể đưa ra bảo lưu về việc áp dụng một số quy định cụ thể của Công ước.
Công ước Rome không quy định về việc tạo ra một Liên hiệp hoặc một quỹ tài chính riêng. Việt Nam trở thành thành viên của Công ước này vào ngày 01/03/2007 và đến nay có khoảng 80 quốc gia thành viên.
1.3. Công ước Geneva
Công ước Geneva là công ước bảo hộ nhà sản xuất chương trình ghi âm chống lại việc sao chép không được phép các bản ghi âm của họ. Công ước được ký kết tại Geneva ngày 29.10.1971.
Nội dung Công ước
Công ước quy định nghĩa vụ cho mỗi quốc gia thành viên về việc bảo hộ các nhà sản xuất bản ghi âm mang quốc tịch của các quốc gia thành viên khác chống lại việc làm bản sao mà không được sự đồng ý của nhà sản xuất, chống lại việc nhập khẩu các bản sao đó tại những nước mà việc làm bản sao hoặc nhập khẩu nhằm mục đích phân phối công cộng, và chống lại việc phân phối các bản sao này tới công chúng.
“Bản ghi âm” có nghĩa là các bản lưu định (ghi) dành riêng để có thể nghe lại, không phụ thuộc vào hình thức của chúng (đĩa, băng hoặc các hình thức khác).
Thời hạn bảo hộ
Việc bảo hộ có thể được quy định thành đối tượng điều chỉnh của luật quyền tác giả, luật về quyền liên quan, luật cạnh tranh không lành mạnh hoặc luật hình sự. Việc bảo hộ phải kéo dài ít nhất 20 năm kể từ khi định hình lần đầu hoặc công bố lần đầu bản ghi âm.
Quản lý và gia nhập công ước
Công ước để mở cho bất kỳ thành viên nào của Liên hiệp quốc hoặc thành viên của bất kỳ tổ chức nào thuộc hệ thống các tổ chức của Liên hiệp quốc. Văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hoặc gia nhập phải được nộp tới Tổng Thư ký của Liên hiệp quốc.
Văn phòng quốc tế của WIPO thực hiện chức năng thư ký của công ước. Công ước không quy định việc lập Liên hiệp, cơ quan điều hành và ngân sách. Việt Nam trở thành thành viên của Công ước này vào ngày 06/07/2005 và đến nay công ước này có khoảng 70 quốc gia thành viên.
1.4. Công ước Brussels
Công ước Brussels là công ước liên quan đến việc phát các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh. Công ước được lập tại Brussels ngày 21.5.1974 vì thế còn được gọi là công ước Brussels.
Công ước quy định nghĩa vụ của mỗi quốc gia thành viên tiến hành các biện pháp thích đáng để ngăn chặn việc phân phối không được phép trên hoặc từ lãnh thổ của nước mình các tín hiệu mang chương trình được truyền qua vệ tinh. Việc phân phối là không được phép nếu như nó không được tổ chức phát sóng giữ vai trò quyết định nội dung chương trình phát sóng cho phép. Nghĩa vụ này tồn tại đối với các tổ chức mang quốc tịch của các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, các quy định của công ước này không áp dụng đối với việc phân phối các tín hiệu được thực hiện từ vệ tinh phát sóng trực tiếp.
Công ước mở rộng cho bất kỳ quốc gia nào là thành viên của Liên hiệp quốc hoặc là thành viên của bất kỳ tổ chức nào thuộc hệ thống các tổ chức của Liên hiệp quốc. Văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hoặc gia nhập phải được nộp tới Tổng Thư ký Liên hiệp quốc.
Công ước không quy định về việc lập Liên hiệp, tổ chức quản lý và ngân sách. Việt Nam trở thành thành viên của Công ước này vào ngày 12/01/2006 và đến nay công ước này có khoảng 25 quốc gia thành viên.
2. Hiệp định TRIPS
Là Hiệp định về các vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập năm 1995 sau khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay trong khuôn khổ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). WTO với 147 nước thành viên đã quy định một hệ thống các quy tắc đối với thương mại quốc tế nhằm mục đích tự do hoá và mở rộng thương mại trên nguyên tắc có đi có lại và cùng có lợi. Hệ thống đó bao gồm cả các quy tắc về sở hữu trí tuệ.
Nội dung bảo hộ sở hữu trí tuệ được đưa vào GATT là một bằng chứng thừa nhận mối liên hệ ngày càng tăng giữa sở hữu trí tuệ và thương mại. Việc bảo hộ sở hữu trí tuệ không thoả đáng bị coi là hoạt động thương mại thiếu lành mạnh và là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa, khi các đối thủ cạnh tranh tại thị trường đó, không cần đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D), có thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều, và vì thế chiếm chỗ và đẩy các sản phẩm hợp pháp và chính hiệu ra khỏi thị trường đó. Kết quả là các nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi vốn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả việc tạo ra các sản phẩm mới. Chừng nào nạn hàng giả, hàng nhái còn phổ biến, thì chủ nhãn hiệu hợp pháp khó có thể kinh doanh có hiệu quả tại thị trường đó.
Thực tế đó của thương mại quốc tế tạo nên sự cần thiết phải hình thành và phát triển một tư duy mới đối với sở hữu trí tuệ trên góc độ thương mại. Kết quả là Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) được ký kết 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/1995 cùng với sự ra đời của Tổ chức Thương mại thế giới. Con đường tới WTO và Hiệp định TRIPS bắt đầu từ sau Đại chiến Thế giới II với việc thành lập GATT. GATT được thành lập ngày 1/1/1948 nhằm duy trì luật lệ chung về thương mại quốc tế. Việc bảo hộ sở hữu trí tuệ lần đầu tiên được bàn tới trong chương trình nghị sự của GATT tại vòng đàm phán về luật chống hàng giả ở Tokyo năm 1978. Tuy vậy, chỉ đến vòng đàm phán Uruguay của GATT, ý tưởng đó mới thực sự trở thành hiện thực với việc thông qua Hiệp định TRIPS.
Hiệp định TRIPS thừa nhận tầm quan trọng của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với hoạt động thương mại và đầu tư, và các thiệt hại đối với các quyền lợi thương mại hợp pháp khi quyền sở hữu trí tuệ không được bảo hộ và thực thi thoả đáng và hiệu quả. Điều 7 của Hiệp định TRIPS quy định rằng, việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ “góp phần thúc đẩy cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế-xã hội nói chung và bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ”.
Theo Hiệp định TRIPS, bảo hộ sở hữu trí tuệ là một bộ phận của hệ thống đa quốc gia thuộc WTO. Ngày 1/1/1996 Hội đồng TRIPS đã ký với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới một thoả thuận nhằm đẩy nhanh việc thực hiện Hiệp định TRIPS với mục tiêu là thúc đẩy việc bảo hộ và thực thi thoả đáng và hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ, và nhằm giảm sự sai lệch và các rào cản trong thương mại quốc tế. Hiệp định TRIPS quy định việc bảo hộ nhiều đối tượng sở hữu trí tuệ khác nhau.
Từ năm 1995, Hiệp định TRIPS đã mang lại những thay đổi căn bản trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Hiệp định TRIPS đã khẳng định lại và mở rộng các chuẩn mực và quy định của Công ước Paris và Công ước Berne, làm thay đổi bộ mặt của luật sở hữu trí tuệ vì các nước thành viên WTO thay đổi luật của họ để phù hợp với Hiệp định TRIPS. Ngoài việc làm hài hòa và tương đồng các hệ thống pháp luật của các quốc gia thành viên, Hiệp định TRIPS còn nhắm tới việc loại bỏ các quy định hành chính, thủ tục, và kỹ thuật bất lợi cho hoạt động sở hữu trí tuệ quốc tế.
Lời nói đầu của Hiệp định TRIPS đã nêu ra các mục tiêu tổng quát là “giảm sai lệch thương mại và các rào cản đối với thương mại quốc tế, … thúc đẩy việc bảo hộ hiệu quả và thoả đáng quyền sở hữu trí tuệ, và … bảo đảm rằng bản thân các biện pháp và thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ không trở thành rào cản đối với thương mại hợp pháp.” WTO chỉ ra rằng các mục tiêu này phải được hiểu theo Điều 7 quy định về các mục tiêu của Hiệp định TRIPS.
Các mục tiêu đó là: việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ phải góp phần (1) thúc đẩy cải tiến công nghệ, (2) chuyển giao và phổ biến công nghệ, (3) bảo đảm quyền lợi của cả các nhà sản xuất và những người sử dụng kiến thức công nghệ phục vụ lợi ích kinh tế xã hội và (4) bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ.
Nói một cách tổng quát, Hiệp định TRIPS quy định các tiêu chuẩn tối thiểu đối với việc bảo hộ tất cả các các đối tượng sở hữu trí tuệ, bao gồm sáng chế, bí quyết kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, chỉ dẫn địa lý, bản quyền tác giả và các quyền liên quan. Điều quan trọng hơn là Hiệp định TRIPS là điều ước quốc tế đầu tiên quy định hệ thống các hình phạt đối với các thành viên không bảo đảm sự bảo hộ tối thiểu về quyền sở hữu trí tuệ, kể cả các tiêu chuẩn tối thiểu về nghĩa vụ thực thi quyền. Các hình phạt này, hoàn toàn không có trong Công ước Paris.
Để bảo đảm các quốc gia thành viên tăng cường việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, Hiệp định TRIPS quy định thời hạn thi hành. Điều 65(1) quy định rằng các nước thành viên có một năm tính từ 1/1/1995 để thi hành các điều khoản của Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, các nước đang phát triển được gia hạn thêm bốn năm (tính đến ngày 01/01/2000) để phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS. Các nước kém phát triển có mười năm để phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS do các hoàn cảnh đặc biệt của họ.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa Hiệp định TRIPS và Công ước Paris được thể hiện trong Điều 2(1). Hiệp định TRIPS bắt buộc tất cả các thành viên WTO tuân thủ các Điều từ Điều 1 đến Điều 12 và Điều 19 của Công ước Paris sửa đổi năm 1967 tại Stockholm.
Các điều khoản này bao gồm tất cả các nguyên tắc cơ bản của Công ước Paris, ngoài các quy định hành chính và ngân sách. Như vậy các nước thành viên Hiệp định TRIPS bị ràng buộc bởi các quy định chủ yếu của Công ước Paris, thậm chí khi các nước này chưa phê chuẩn Công ước Paris. Hiệp định TRIPS đề cập một cách chính xác hơn nguyên tắc “đối xử quốc gia” đã có hiệu lực đối với nhiều quốc gia thành viên Công ước Paris. Cũng như Công ước Paris, Điều 3 Hiệp định TRIPS quy định nguyên tắc có đi có lại giữa các quốc gia thành viên. Mỗi quốc gia thành viên phải dành cho công dân của các quốc gia thành viên khác sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không kém thuận lợi so với sự đối xử dành cho công dân của nước đó.
Hiệp định TRIPS, ngoài việc đề cập đến các nguyên tắc cơ bản của Công ước Paris, đã vượt ra ngoài Công ước Paris, lần đầu tiên đưa ra một nguyên tắc mới đó là “đối xử tối huệ quốc”(MFN). Theo Điều 4 Hiệp định TRIPS: ” bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào được một Thành viên dành cho công dân của bất kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành cho công dân của tất cả các Thành viên khác.”
Với mục đích chống hàng giả nhãn hiệu hàng hoá, Hiệp định TRIPS quy định các nguyên tắc tổng quát về thủ tục bảo hộ một cách thoả đáng và hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp tại các nước thành viên. Phần III và phần IV của Hiệp định TRIPS quy định rằng các nước thành viên phải quy định trong luật pháp quốc gia của mình các thủ tục cho phép áp dụng các biện pháp có hiệu quả đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Các quốc gia thành viên cũng phải quy định một cơ chế nhằm ngăn chặn các hành vi tái vi phạm các quyền đó và có nghĩa vụ phải áp dụng cả hai biện pháp nói trên để tránh các rào cản gây trở ngại cho thương mại hợp pháp và các biện pháp an toàn đối với việc lạm dụng quyền. Hơn thế, các thủ tục và hình thức quy định đối với việc bảo hộ quyền phải hợp lý và công bằng và không được “phức tạp và tốn kém đến mức không cần thiết” và không được “kéo dài một cách bất hợp lý và không có lý do”.
Nhằm ngăn chặn hàng giả Hiệp định TRIPS quy định rằng luật nhãn hiệu hàng hoá quốc gia của các nước thành viên phải quy định một số thủ tục và các thủ tục này phải được công khai đối với chủ sở hữu quyền. Trong số đó có cơ chế thực thi, chẳng hạn như các thủ tục dân sự, hình sự và hành chính, bao gồm các biện pháp tạm thời, bồi thường thiệt hại, tiêu huỷ tang vật vi phạm. Hiệp định TRIPS cũng quy định cần thiết lập các thủ tục kiểm soát hàng giả tại biên giới.
Hiệp định TRIPS cũng quy định rằng các phán quyết của toà án về các vụ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ phải được thể hiện bằng văn bản, có nêu rõ lý do, và được thông báo kịp thời cho các bên. Các phán quyết phải dựa trên các bằng chứng và các bên nhất thiết phải có một cơ hội để trình bày ý kiến. Mặc dù các nước thành viên không bắt buộc phải thiết lập một hệ thống xét xử riêng, song nhất thiết phải quy định các thủ tục xem xét tại toà án tất cả các quyết định hành chính cuối cùng.
Phần III, các Mục từ Mục 2 đến Mục 5 của Hiệp định TRIPS quy định các biện pháp trừng phạt hình sự, dân sự và hành chính. Trường hợp có vi phạm, chủ sở hữu quyền có thể lựa chọn cách giải quyết thông qua các cơ quan xét xử, hành chính, và hải quan với việc áp dụng các biện pháp như lệnh và các biện pháp trừng phạt hoặc tịch thu hay tiêu huỷ hàng giả nhãn hiệu. Trường hợp vi phạm nghiêm trọng, chủ sở hữu quyền có thể yêu cầu áp dụng các biện pháp tạm thời như đình chỉ việc lưu thông hàng hoá.
Về các thoả thuận thể chế, Hiệp định có các điều khoản về việc thành lập cơ quan quản lý là Hội đồng của Hiệp định gọi là Hội đồng TRIPS. Hội đồng này kiểm soát các hoạt động của TRIPS, đặc biệt là việc tuân thủ các nghĩa vụ theo Hiệp định của các thành viên. Ngoài ra, Hội đồng TRIPS còn có nhiệm vụ lập ra các thoả thuận tương ứng về hợp tác với các cơ quan của WIPO, tổ chức các Hội nghị đánh giá việc thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định của các quốc gia thành viên. Cũng cần lưu ý là Hiệp định TRIPS là một trong các Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay, do WTO phụ trách chung mà cơ quan cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng với cơ quan thường trực của nó là Đại hội đồng. Đại hội đồng gồm đại diện của tất cả các thành viên WTO thực hiện chức năng lập và điều hành các cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO thông qua cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB). Việt Nam chính thức gia nhập WTO năm 2007.
Những quy định về thực thi quyền trong các Công ước Quốc tế về bản quyền tác giả và các quyền liên quan
Các công ước quốc tế về bản quyền tác giả và các quyền liên quan không có những quy định phổ quát cho việc thi hành thực tế các quyền, như Công ước Berne chỉ có hai điều khoản cụ thể về thực thi quyền, đó là Điều 16(1) và (2), quy định các bản sao xâm phạm quyền tác giả của một tác phẩm có thể bị tịch thu ở bất kỳ Quốc gia thành viên nào, và điều 13(3), quy định về việc tịch thu các bản sao của những bản ghi nhạc phẩm mà được nhập khẩu không được sự cho phép của tác giả hoặc chủ sở hữu khác của bản quyền tác giả tại nước nhập khẩu. Có thể tìm thấy những quy định tương tự tại điều 26(1) và (2) của Công ước Rome. Điều 2 Công ước về các bản ghi âm buộc mỗi quốc gia thành viên phải bảo hộ các nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sản xuất các phiên bản giống hệt (bản sao) mà không được sự đồng ý của nhà sản xuất và chống lại việc nhập khẩu và phân phối những phiên bản này;
Phần V. Hệ thống thực thi
- Theo thủ tục dân sự, hình sự
- Theo thủ tục hành chính, hải quan cửa khẩu
Giới thiệu
Sự phát triển của các tiêu chuẩn quốc tế đối với việc thực thi quyền tác giả và các quyền liên quan đã diễn ra mạnh mẽ trong những năm gần đây, và sự phát triển này về cơ bản được vận hành bởi hai nhân tố. Nhân tố đầu tiên là sự tiến bộ của các phương tiện công nghệ dùng cho việc sáng tạo và việc sử dụng (được phép cũng như trái phép) các tác phẩm được bảo hộ, bao gồm công nghệ kỹ thuật số gần đây khiến cho việc truyền tải và tạo bản sao hoàn hảo các nội dung dưới dạng số, bao gồm cả các tác phẩm và sản phẩm được bảo hộ bởi luật bản quyền tác giả và các quyền liên quan. Nhân tố thứ hai là tầm quan trọng về kinh tế ngày càng cao của hàng hóa và dịch vụ được bảo hộ bởi các quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại quốc tế, đó là việc công nghiệp kinh doanh các sản phẩm gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ hiện đang bùng nổ trên quy mô toàn cầu.
Theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng, việc bảo hộ quyền tác giả có thể được thực hiện thông qua biện pháp dân sự, hành chính và hình sự, trong đó, bước chuyển biến lớn và quan trọng nhất của pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ cũng như quyền tác giả là giải quyết các tranh chấp phát sinh bằng biện pháp dân sự. Việc xử lý các tranh chấp về quyền tác giả bằng biện pháp dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân (Khoản 2 Điều 200 Luật Sở hữu trí tuệ: “Việc áp dụng biện pháp dân sự, hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật”)
Thẩm quyền xét xử
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ được quy định tại Khoản 4 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, là các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ mà các bên không có mục đích lợi nhuận hoặc chỉ một bên có mục đích lợi nhuận (Khoản 1 Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và Điểm 3.4 Nghị quyết của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004).
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ được quy định tại Khoản 2 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự, là các tranh chấp mà cả hai bên đều có mục đích lợi nhuận (Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Điểm 3.4 Nghị quyết của HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004).
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có thẩm quyền xét xử các tranh chấp về sở hữu trí tuệ có yếu tố nước ngoài (Điều 45 Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994: Các tranh chấp có yếu tố nước ngoài về bảo hộ quyền tác giả được giải quyết tại cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền hoặc tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.)
Những tranh chấp về quyền tác giả thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Hiện nay, vẫn chưa có văn bản mới hướng dẫn về những tranh chấp về quyền tác giả sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Vì vậy, Thông tư liên tịch số 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BVNTT ngày 05/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại TAND vẫn được dùng để tham khảo. Theo đó, các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân bao gồm:
+ Các tranh chấp về quyền tác giả đối với tác phẩm giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tổ chức, tổ chức với tổ chức; các đồng tác giả với nhau; một hoặc các đồng tác giả với cá nhân, tổ chức khác. Đây là những tranh chấp về việc ai là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học… có thể là toàn bộ tác phẩm hoặc chỉ một phần của tác phẩm đó.
+ Các tranh chấp về quyền tác giả đối với phần mềm máy tính giữa người cung cấp tài chính hoặc các điều kiện vật chất có tính quyết định cho việc xây dựng, phát triển phần mềm máy tính với người thiết kế, xây dựng phần mềm máy tính;
+ Các tranh chấp về các quyền nhân thân hoặc các quyền tài sản liên quan đến quyền tác giả giữa:
– Tác giả với chủ sở hữu tác phẩm (theo quan hệ giao nhiệm vụ hoặc theo hợp đồng sáng tạo);
– Tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm với người dịch, phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể hoặc với người sử dụng tác phẩm dịch, phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể để sáng tạo tác phẩm mới;
– Tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm đã công bố với người sưu tầm tác phẩm đó để làm tuyển tập, hợp tuyển;
– Tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm với tổ chức điện ảnh, phát thanh, truyền hình, sân khấu hoặc các tổ chức biểu diễn các loại hình nghệ thuật khác;
– Tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm với người sử dụng tác phẩm đó để biểu diễn;
– Tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm với tổ chức, cá nhân sản xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;
– Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm, chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả với tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm của họ nhằm mục đích kinh doanh;
– Tổ chức sản xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình (có chương trình) với tổ chức, cá nhân khác về việc nhân bản, phát hành sản phẩm;
– Tổ chức phát thanh, truyền hình với tổ chức, cá nhân khác về việc phát sóng chương trình hoặc làm các bản sao chương trình;
– Người biểu diễn với cá nhân, tổ chức;
+ Các tranh chấp về hợp đồng sử dụng tác phẩm hoặc tranh chấp về hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả:
+ Các tranh chấp về thừa kế quyền tác giả;
+ Các tranh chấp khác liên quan đến quyền tác giả.
* Ngoài các loại tranh chấp kể trên, trong Luật sở hữu trí tuệ còn có một số quy định về các hành vi khác cũng là hành vi xâm phạm quyền tác giả, và chủ thể quyền có thể khởi kiện lên Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bao gồm:
+ Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
+ Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với các tác phẩm của mình.
+ Cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm.
+ Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu hóa các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
Nội dung chế tài dân sự trong tranh chấp về quyền tác giả
Trước khi xét xử và ra phán quyết:
Để đảm bảo việc xử lý xâm phạm được hiệu quả, pháp luật về tố tụng dân sự nói chung và sở hữu trí tuệ nói riêng đều có quy định về các quyền yêu cầu của đương sự trong quá trình xử lý, thậm chí có thể gửi đơn yêu cầu đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện hành vi xâm phạm (Khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng dân sự và Khoản 1 Điều 206 Luật sở hữu trí tuệ), bao gồm: Yêu cầu cung cấp chứng cứ, tang vật; yêu cầu bảo vệ, bảo toàn chứng cứ; yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Yêu cầu cung cấp chứng cứ
Theo quy định tại Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự thì: Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn “Toà án có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình chứng cứ. Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Toà án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu”.
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 203 Luật sở hữu trí tuệ thì: Trong trường hợp một bên trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chứng minh được chứng cứ thích hợp để chứng minh cho yêu cầu của mình bị bên kia kiểm soát do đó không thể tiếp cận được thì có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên kiểm soát chứng cứ phải đưa ra chứng cứ đó. Như vậy, ở Luật sở hữu trí tuệ cũng có quy định cụ thể về trường hợp một bên có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên kia phải đưa ra chứng cứ, và phải chứng minh được chứng cứ này đang bị bên kia kiểm soát không thể tiếp cận được.
Bảo vệ chứng cứ
Theo quy định tại Điều 98 Bộ luật tố tụng dân sự thì đương sự có quyền làm đơn đề nghị Tòa án quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được. Các biện pháp bảo vệ chứng cứ gồm có: niêm phong, thu giữ, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện pháp khác.
Cũng theo Khoản 2 Điều 98 của Bộ luật tố tụng dân sự, trong trường hợp người làm chứng bị đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc để không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Tòa án có quyền quyết định buộc người có hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc phải chấm dứt những hành vi đó. Nếu những hành vi đó mà có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát xem xét về trách nhiệm hình sự.
Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, các biện pháp để nhằm bảo vệ chứng cứ được quy định chung trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong Bộ luật tố tụng dân sự có một phần (từ Điều 99 đến Điều 126) dành để quy định cụ thể về các biện pháp khẩn cấp tạm thời, về quyền yêu cầu áp dụng; thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ; trách nhiệm do áp dụng không đúng; khiếu nại kiến nghị về việc áp dụng và các biện pháp khẩn cấp tạm thời…
Luật sở hữu trí tuệ cũng có những quy định tương ứng về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các vụ kiện về quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể:
Thời điểm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đều có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Khoản 1 Điều 206 ). Tòa án chỉ áp dụng khi có đơn yêu cầu và bảo đảm của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Các trường hợp áp dụng
– Đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ;
– Hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu hủy nếu không được bảo vệ kịp thời. “Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ quy định tại khoản 1 Điều này trước khi nghe ý kiến của bên bị áp dụng biện pháp đó”(Khoản 1 và 2 Điều 206 Luật sở hữu trí tuệ).
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 207 Luật sở hữu trí tuệ bao gồm: Thu giữ; kê biên; niêm phong, cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển; cấm dịch chuyển quyền sở hữu. Các biện pháp này được áp dụng đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hóa đó.
Ngoài ra, các biện pháp khác (như phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản tại nơi gửi giữ; phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ; cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định…) được áp dụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Nghĩa vụ của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Để tránh tình trạng lạm dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, Điều 208 Luật sở hữu trí tuệ quy định về các nghĩa vụ của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
Nghĩa vụ đầu tiên là chứng minh quyền yêu cầu của mình là có căn cứ, thuộc các trường hợp được áp dụng như quy định tại Khoản 1 Điều 206 Luật sở hữu trí tuệ, bằng các tài liệu, chứng cứ dùng để chứng minh mình là chủ thể quyền được quy định tại Khoản 2 Điều 203 Luật sở hữu trí tuệ.
Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại gây ra cho người bị áp dụng biện pháp đó trong trường hợp người đó không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Theo quy định tại Điều 101 Khoản 1 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: Trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc người thứ ba thì phải bồi thường).
Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ này, người yêu cầu áp dụng phải nộp khoản bảo đảm bằng một trong các hình thức sau:
– Khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hoá cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc tối thiểu hai mươi triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng hóa đó; (Theo quy định tại Điều 120 của BLTTDS thì người yêu cầu áp dụng cũng phải nộp một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá và giá trị của khoản tiền hoặc tài sản phải nộp này là do Tòa án ấn định nhưng phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng);
– Chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác (Trong BLTTDS không quy định về biện pháp bảo đảm cho yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác).
Như vậy, có thể thấy, Bộ luật tố tụng dân sự và Luật sở hữu trí tuệ đã có nhiều quy định cụ thể cho quyền yêu cầu của đương sự trong quá trình xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng, đảm bảo cho việc xử lý được đúng đắn và hiệu quả, bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của chủ thể quyền.
Ra phán quyết
Song song với đảm bảo quyền yêu cầu thì các chế tài để xử lý trong các phán quyết của Tòa án đối với bên vi phạm quyền là vấn đề rất quan trọng, đó là các biện pháp chủ yếu để đảm bảo quyền lợi cuối cùng cho chủ thể quyền, mặt khác còn có tác dụng răn đe những chủ thể vi phạm khác.
Các biện pháp dân sự (chế tài dân sự) để xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ: Theo quy định tại Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ gồm có 5 biện pháp, đó là:
1. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
2. Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
3. Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
4. Buộc bồi thường thiệt hại;
5. Buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Trong tất cả các biện pháp trên thì biện pháp buộc bồi thường thiệt hại là chế tài chủ yếu, được chú trọng nhất:
Nghĩa vụ chứng minh: thuộc về nguyên đơn.
Khoản 6 Điều 203 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “Trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 205 của Luật này”
Xác định thiệt hại
Theo Điều 204 Luật sở hữu trí tuệ thì thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm:
a) Thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại;
b) Thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng.
Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra.
Như vậy Luật Sở hữu trí tuệ quy định thiệt hại cụ thể hơn nhiều so với Bộ luật Dân sự (Điều 608 Bộ luật dân sự quy định về thiệt hại do tài sản bị xâm phạm và Điều 611về thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm).
Từ Điều 16 đến 20 của Nghị định 105/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ và quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ quy định cụ thể hơn về vấn đề này.
Nguyên tắc xác định thiệt hại (Điều 16 Nghị định số 105)
1. Thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 204 của Luật Sở hữu trí tuệ là sự tổn thất thực tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
2. Được coi là có tổn thất thực tế nếu có đủ các căn cứ sau đây:
a) Lợi ích vật chất hoặc tinh thần là có thực và thuộc về người bị thiệt hại;
b) Người bị thiệt hại có khả năng đạt được lợi ích quy định tại điểm a khoản này;
c) Có sự giảm sút hoặc mất lợi ích của người bị thiệt hại sau khi hành vi xâm phạm xảy ra so với khả năng đạt được lợi ích đó khi không có hành vi xâm phạm và hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm sút, mất lợi ích đó.
3. Mức độ thiệt hại được xác định phù hợp với yếu tố xâm phạm quyền đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
Việc xác định mức độ thiệt hại dựa trên chứng cứ về thiệt hại do các bên cung cấp, kể cả kết quả trưng cầu giám định và bản kê khai thiệt hại, trong đó làm rõ các căn cứ để xác định và tính toán mức thiệt hại.
Tổn thất về tài sản (Điều 17 Nghị định số 105)
1. Tổn thất về tài sản được xác định theo mức độ giảm sút hoặc bị mất về giá trị tính được thành tiền của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ.
2. Giá trị tính được thành tiền của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo một hoặc các căn cứ sau đây:
a) Giá chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
b) Giá trị góp vốn kinh doanh bằng quyền sở hữu trí tuệ;
c) Giá trị quyền sở hữu trí tuệ trong tổng số tài sản của doanh nghiệp;
d) Giá trị đầu tư cho việc tạo ra và phát triển đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm các chi phí tiếp thị, nghiên cứu, quảng cáo, lao động, thuế và các chi phí khác.
Giảm sút về thu nhập, lợi nhuận (Điều 18 NĐ số 105)
1. Thu nhập, lợi nhuận quy định tại điểm a khoản 1 Điều 204 của Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm:
a) Thu nhập, lợi nhuận thu được do sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
b) Thu nhập, lợi nhuận thu được do cho thuê đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
c) Thu nhập, lợi nhuận thu được do chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
2. Mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận được xác định theo một hoặc các căn cứ sau đây:
a) So sánh trực tiếp mức thu nhập, lợi nhuận thực tế trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm, tương ứng với từng loại thu nhập quy định tại khoản 1 Điều này;
b) So sánh sản lượng, số lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thực tế tiêu thụ hoặc cung ứng trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm;
c) So sánh giá bán thực tế trên thị trường của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm.
Tổn thất về cơ hội kinh doanh (Điều 19 Nghị định số 105)
1. Cơ hội kinh doanh quy định tại điểm a khoản 1 Điều 204 của Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm:
a) Khả năng thực tế sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh;
b) Khả năng thực tế cho người khác thuê đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
c) Khả năng thực tế chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, chuyển nhượng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ cho người khác;
d) Cơ hội kinh doanh khác bị mất do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra.
2. Tổn thất về cơ hội kinh doanh là thiệt hại về giá trị tính được thành tiền của khoản thu nhập đáng lẽ người bị thiệt hại có thể có được khi thực hiện các khả năng quy định tại khoản 1 Điều này nhưng thực tế không có được khoản thu nhập đó do hành vi xâm phạm gây ra.
Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại
Chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại quy định tại điểm a khoản 1 Điều 204 của Luật Sở hữu trí tuệ gồm chi phí cho việc tạm giữ, bảo quản, lưu kho, lưu bãi đối với hàng hoá xâm phạm, chi phí thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời, chi phí hợp lý để thuê dịch vụ giám định, ngăn chặn, khắc phục hành vi xâm phạm và chi phí cho việc thông báo, cải chính trên phương tiện thông tin đại chúng liên quan đến hành vi xâm phạm.
Căn cứ xác định mức bồi thường (Khoản 1 Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ)
Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường theo một trong các căn cứ sau đây:
a) Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất;
b) Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện;
Mức bồi thường
Mức bồi thường các thiệt hại về vật chất: Do nguyên đơn yêu cầu Tòa án quyết định dựa trên các căn cứ xác định như trên. Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ trên thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng (Khoản 1 Điều 205 điểm c Luật sở hữu trí tuệ).
Mức bồi thường các thiệt hại về tinh thần: Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ thì:
Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại. (Theo Khoản 2 Điều 611 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điểm c Mục 3.3 Nghị quyết của HĐTPTANDTC số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì: mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường).
Ngoài khoản bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu Toà án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư. (Trong Bộ luật Dân sự không có quy định cụ thể về thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư.)
Các biện pháp dân sự không phải lúc nào cũng là biện pháp ngăn chặn hữu hiệu. Khi việc vi phạm đã trở thành một công nghệ kinh doanh, việc đóng cửa một cơ sở kinh doanh theo quyết định của toà án và các cơ quan thực thi pháp luật nhiều khi đồng nghĩa với việc sẽ lại có một cơ sở khác được mở ở một nơi khác, dưới tên khác với chủ đăng ký khác. Những hành vi xâm phạm được thực hiện một cách có chủ ý và nhằm mục đích kiếm lời sẽ bị trừng phạt bằng những chế tài hình sự và mức độ của những chế tài như vậy phải cho thấy rõ ràng rằng, hành vi xâm phạm bản quyền tác giả trong trường hợp đó là hành vi phạm tội nghiêm trọng. Các chế tài hình sự thích hợp bao gồm cả phạt tiền và phạt tù, và, khi thụ lý vụ án, các toà án có thể áp đặt cả hai chế tài này đối với người vi phạm.
Trong một số tình huống, phương tiện thực sự hữu ích để ngăn chặn việc sao chép được gọi là “công nghệ chống sao chép” hoặc “hệ thống quản lý thông tin về bản quyền”, đó là, các hệ thống có chứa đựng những thiết bị kỹ thuật, hoặc ngăn chặn hoàn toàn việc sao chép hoặc làm cho chất lượng của bản sao không thể dùng được. Các thiết bị kỹ thuật cũng được sử dụng để ngăn chặn việc thu các chương trình truyền hình thương mại đã được mã hóa, để có tín hiệu chuẩn người xem phải mua hoặc đóng tiền thuê bao để được trợ giúp bởi bộ giải mã. Tất nhiên, về mặt kỹ thuật có thể tạo ra các thiết bị để vô hiệu hóa hệ thống chống sao chép và hệ thống quản lý thông tin về bản quyền. Cũng như mọi hệ thống mã hóa đều có thể bị bẻ khóa, mặc dù điều này là bất hợp pháp. Nếu những thiết bị này được sản xuất hoặc nhập khẩu và phân phối trái phép thì việc khai thác bình thường các tác phẩm sẽ bị phương hại và có thể gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho tác giả hoặc các chủ sở hữu quyền khác các quyền tác giả các tác phẩm đó. Những hoạt động này là xâm phạm các quyền đã được bảo hộ và phải bị xử lí theo pháp luật.
Những biện pháp kiểm soát biên giới
Nạn ăn cắp bản quyền không còn là một hoạt động trong mỗi quốc gia riêng biệt, mà đã trở thành một hoạt động mang tính quốc tế, với một số lượng lớn các bản sao xâm phạm được sản xuất tại một nước và được vận chuyển đến tiêu thụ tại các nước khác trên thế giới. Việc kinh doanh trái pháp luật như vậy ngầm phá hoại việc kinh doanh hợp pháp đến mức nhiều công ty quốc tế có thể thua lỗ và phải rút khỏi thị trường đó và việc đầu tư trong lĩnh vực ghi âm cũng như việc ảnh hưởng đến việc phát hiện và đầu tư cho các tài năng địa phương. Vì lý do này, biện pháp kiểm soát tại biên giới để ngăn chặn các bản sao xâm phạm thâm nhập vào thị trường nội địa là sống còn, và các quy định để thực thi được điều này là một đặc điểm quan trọng của luật bản quyền tác giả hiện đại. Từ Điều 51 đến Điều 60 Hiệp định TRIPS cũng quy định các biện pháp kiểm soát biên giới. Các biện pháp kiểm soát tại biên giới dễ dàng hơn là khi các bản sao xâm phạm đã được mang vào trong nước và đưa ra lưu thông. Các biện pháp kiểm soát tại biên giới thường do các cơ quan hải quan mà không phải do các cơ quan tư pháp.
Tác giả: Nguyễn Văn Bảy
CẢM ƠN QUÝ BẠN ĐỌC ĐÃ GHÉ THĂM WEDSITE!