Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức

Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức

Khi nghiên cứu vấn đề TNHS của tổ chức ở một số nước thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau, chúng tôi thấy rằng, mặc dù quy định TNHS của tổ chức là xu thế tất yếu hiện nay trong pháp luật hình sự thế giới,  nhưng cũng có không ít nước vẫn chưa chấp nhận chế định này. Vì vậy, trong khoa học luật hình sự trên thế giới vẫn tồn tại hai quan điểm lý luận trái ngược nhau về vấn đề này: quan điểm phản đối và quan điểm ủng hộ TNHS của tổ chức trong luật hình sự.

  • Quan điểm phản đối trách nhiệm hình sự của tổ chức

  Nghiên cứu vấn đề TNHS của tổ chức trong luật hình sự nhiều nước trên thế giới cho thấy các lý do để những người không ủng hộ TNHS của tổ chức mà đại diện chủ yếu là các nhà hình sự học theo học thuyết cổ điển (hay còn gọi là học thuyết truyền thống) đưa ra để bác bỏ chế định này là: 1/ TNHS của tổ chức không phù hợp với nguyên tắc hành vi và nguyên tắc lỗi trong luật hình sự; 2/ TNHS của tổ chức không phù hợp với nguyên tắc cá thể hóa TNHS và mục đích giáo dục của hình phạt; 3/ khả năng áp dụng hình phạt (hình thức TNHS) đối với tổ chức; và 4/ TNHS của tổ chức không phù hợp với quan niệm đạo đức, nguyên tắc công bằng trong luật hình sự[1].

– Theo học thuyết cổ điển, truyền thống, tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu thuộc hành vi khách quan (actus reus – Lat.) và dấu hiệu lỗi chủ quan (mens rea – Lat.). Hành vi khách quan của tội phạm phải do chính người phạm tội trực tiếp thực hiện. Pháp nhân là một thực thể pháp lý trừu tượng. Pháp nhân là một ngư­ời vô hình, do các thành viên hợp lại, và đại diện cho tất cả các thành viên. Do không phải là thực thể hữu hình, nên pháp nhân không thể tự mình trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội; hành vi phạm tội được quy kết cho pháp nhân là do những cá nhân, đó là các cơ quan, nhân viên thừa hành hoặc người đ­ược ủy quyền của pháp nhân thực hiện[2]. Mặc dù trong thực tiễn, các cơ quan, nhân viên thừa hành hoặc ngư­ời đ­ược ủy quyền của pháp nhân có thể phạm tội trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, như­ng không thể nói hành vi đó là hành vi của pháp nhân; và vì vậy, sẽ là không hợp lý nếu quy kết hành vi phạm tội đó cho chính bản thân pháp nhân[3].

Từ góc độ chủ quan, lỗi là thái độ tâm lý (nhận thức và ý chí) của người phạm tội đối với hành vi người đó thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây nên. Cũng theo quan điểm này, pháp nhân không có thể xác và cũng chẳng có linh hồn, nó chỉ là những cấu trúc pháp lý đư­ợc thiết lập nhằm phục vụ các lợi ích cá nhân của những thành viên của pháp nhân. Các nghị quyết, các quyết định của pháp nhân chỉ là kết quả của con số cộng các ý chí cá nhân của các thành viên chứ không phải từ sự mong muốn của chính bản thân pháp nhân[4]. Savigny nhấn mạnh: “Pháp nhân… chỉ là một thực thể trừu tượng… sự tồn tại thực tế của nó dựa trên các quyết định của một hoặc một số những người đại diện mà chiểu theo sự trừu tượng đ­ược xem nh­ư là các quyết định của chính bản thân pháp nhân, một sự đại diện nh­ư thế… loại trừ ý chí theo đúng nghĩa”[5]. Như vậy, có thể nói là không có lỗi nào có thể được quy kết cho pháp nhân – một thực thể trừu tượng không có nhận thức và cũng không thể có ý chí[6].

Nói tóm lại, theo quan điểm truyền thống này thì nếu đối với các thể nhân, có thể quy kết hành vi vật chất khách quan của vụ việc phạm tội và thái độ chủ quan tội lỗi của chính họ cho mỗi tội phạm thì pháp nhân dư­ới lăng kính của học thuyết cổ điển, vì không có thể hành động trực tiếp, không có sự bấu víu trực tiếp nào vào thực tế khách quan và thiếu tự do ý chí, khả năng nhận thức nên nó (pháp nhân) về bản chất là những thực thể không tư­ơng thích cho việc thực hiện hành vi phạm tội[7].

– Việc trừng trị pháp nhân, tổ chức không chỉ không công bằng mà còn tỏ ra khó tương hợp với nguyên tắc cá thể hoá hình phạt[8]. Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt đòi hỏi tòa án khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong từng trường hợp phải căn cứ vào hành vi và sự tham gia cụ thể của họ vào tội phạm bị truy cứu, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đặc biệt là các yếu tố nhân thân người phạm tội. Trong khi một tội phạm đ­ược thực hiện trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân, thì hoặc là toàn bộ các thành viên của pháp nhân đã phạm tội cần phải bị trừng trị có sự phân biệt và tương xứng với lỗi của từng ngư­ời, hoặc là chỉ trừng trị một hoặc một số người trong pháp nhân đã cùng (đồng phạm) thực hiện hành vi phạm tội. Sẽ là đúng, công bằng nếu chỉ trừng trị những người đó; sẽ là không công bằng nếu lại trừng trị cả những thành viên khác trong pháp nhân[9] chỉ vì lý do họ thuộc về một tập thể hoặc là họ phụ thuộc vào nó. Nếu trừng trị một thực thể như­ vậy cuối cùng sẽ không công bằng và không có lợi. Trừng phạt một thực thể tập thể sẽ gây thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác thuộc pháp nhân vốn là những người hoàn toàn không biết đến, không có lỗi gì liên quan đến hành vi phạm tội của những người khác. Donnedieu De Vabres viết: “Nằm trong sự tất yếu của sự việc là bắt một pháp nhân phải chịu một hình phạt có những hậu quả bất lợi đối với những ngư­ời thứ ba vô tội”[10].

– Những ngư­ời theo học thuyết cổ điển chống lại TNHS của pháp nhân không chỉ bằng lý lẽ là pháp nhân không có khả năng phạm tội, không thể có lỗi mà hơn thế, họ cho rằng các chế tài hình sự, là sự kết án về mặt đạo đức và mệnh lệnh bắt buộc trái với ý muốn của các thể nhân, nhất thiết không thể áp dụng được cho pháp nhân, tổ chức. Dù sao chăng nữa các pháp nhân cũng không thể chịu một hình phạt nào đó có hữu ích[11].

 Đã một thời gian dài các nhà hình sự học theo học thuyết cổ điển nói về sự không thể trừng trị pháp nhân hoặc chí ít cũng là khó khăn về mặt thực tế khi áp dụng chế tài hình sự cho pháp nhân[12]. Các hình phạt được coi là đặc trưng, truyền thống và có hiệu quả trong luật hình sự như tử hình, phạt tù… không thể áp dụng được đối với pháp nhân. Người ta có thể phạt tù, bắt giam như­ thế nào đối với một thực thể mà bản chất của nó là vô hình? làm thế nào có thể tư­ớc mạng sống của một chủ thể giả tưởng mà bản chất của nó là thiếu sự tồn tại của thực thể hữu hình[13]. Vì vậy, việc quy định TNHS nhưng không thể áp dụng các hình phạt đặc trưng trên đối với pháp nhân làm cho việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân không còn có nhiều ý nghĩa, không đạt được mục đích giáo dục, phòng ngừa.

Ngư­ợc lại, mặc dù các học giả theo học thuyết truyền thống không chối bỏ khả năng áp dụng các loại hình phạt khác như­ phạt tiền, tịch thu tài sản, tước một số quyền… như­ng họ lại đư­a ra lập luận là việc trừng trị một pháp nhân sẽ dẫn đến việc xử lý không có sự phân biệt các thành viên của pháp nhân, sẽ dẫn đến trừng trị cả với những ngư­ời không tham gia phạm tội[14]. Theo Thomas Hobbes, cái giá thực sự khi áp dụng TNHS, xét đến cùng, chính các pháp nhân không phải chịu mà là những cá nhân cụ thể trong pháp nhân như­: ngư­ời góp cổ phần, cổ đông, ng­ười lao động… phải chịu. Như­ vậy, chế định TNHS của pháp nhân không thể chấp nhận đư­ợc về ph­ương diện pháp lý cũng như­ về đạo lý[15].

Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức
Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức
  • Quan điểm ủng hộ trách nhiệm hình sự của pháp nhân (Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức)

Nghiên cứu so sánh vấn đề TNHS của pháp nhân cho thấy rằng càng ngày, nhất là từ nửa cuối thế kỷ trước đến nay, ngày càng có nhiều văn bản từ cả góc độ pháp luật quốc tế lẫn các quốc gia quy định TNHS của tổ chức. Đồng thời, cũng càng ngày càng có nhiều nhà hình sự học ủng hộ TNHS của tổ chức. Những người theo quan điểm này không chỉ bác bỏ các lập luận của những người theo học thuyết cổ điển, mà còn nhìn nhận vấn đề từ góc độ nhận thức hiện đại, từ thực tiễn và nhu cầu phát triển xã hội hiện đại. Các nhà hình sự học ủng hộ việc áp dụng TNHS của pháp nhân cũng đã có những lập luận khoa học để bảo vệ quan điểm của mình. Với kết quả nghiên cứu của mình, chúng tôi hoàn toàn chia sẻ các lập luận khoa học đó.

Quan điểm cho rằng chỉ duy nhất các thể nhân mới trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, có năng lực biểu lộ ý chí của chính mình khi thực hiện hành vi phạm tội và vì vậy, chỉ có thể nhân thực hiện tội phạm mới phải chịu TNHS. Quan niệm cho rằng các pháp nhân chỉ là những trừu tượng pháp lý (fiction juridique) ngày nay đã không còn đ­ược chấp nhận, không còn phù hợp với thực tế tồn tại của các pháp nhân với tư cách là “đại diện cho các sức mạnh của thời đại”[16].

 Các học thuyết pháp lý và thực tiễn xét xử của toà án nhiều nư­ớc đã thoát khỏi quan niệm trên và hình thành nên nhận thức mới về vị trí, vai trò của pháp nhân trong xã hội cùng với việc từ bỏ quan niệm thuần tuý cho rằng chỉ có cá nhân mới phải chịu TNHS[17].

  Pháp nhân không phải là một trừu tượng pháp lý thuần tuý, nó những đặc tính không đổi được thừa nhận chung, có sự tồn tại thực tế của nó trong mối quan hệ với các thành viên của pháp nhân. Về thực tế, pháp luật đã ghi nhận và tổ chức nó trên phư­ơng diện pháp lý. Pháp nhân có ý chí độc lập chứ không đơn thuần chỉ là con số cộng ý chí của các cá nhân thành viên pháp nhân, tập đoàn đ­ược pháp nhân hoá; pháp nhân có thể tự quyết định một cách tự do và theo đuổi những mục tiêu cụ thể của mình và độc lập với những lợi ích của các cá nhân tạo nên pháp nhân đó[18]. Nói cách khác, các tổ chức mặc dù bao gồm các cá nhân nhưng được hình thành bởi những lợi ích tập trung và được tổ chức thông qua các cấu trúc pháp lý xác định. Trong các tổ chức, những định hướng chủ đạo thể hiện những mục tiêu của chính mỗi tập thể được đư­a ra không chỉ hoàn toàn giới hạn bởi tổng số các ý chí riêng của các thành viên tập đoàn. Pháp nhân, tổ chức hoàn toàn có ý chí của riêng mình bởi vì nó sinh ra, tồn tại và phát triển bằng sự gặp gỡ giữa các ý chí cá nhân của các thành viên của mình (Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức).

  “Pháp nhân không phải là một thể nhân, mà là một tổ chức – tập hợp của nhiều ng­ười – đ­ược pháp luật trao cho tư cách của một ng­ười trong các quan hệ pháp luật. Hoạt động của một ngư­ời (thể nhân) có thể bị chi phối bởi lý do tình cảm, lý trí như­ng một hoạt động của pháp nhân thì không. Pháp nhân chỉ theo đuổi những mục tiêu đặt ra trong văn kiện sáng lập tổ chức đó”[19]. “Trên thực tế, hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể do một tập thể gây ra do kết quả của việc đư­a ra những quyết định sai trái. Một số tội phạm, trên thực tế, cũng có thể do cá nhân hoặc tổ chức gây ra. Ví dụ, các tội phạm về kinh tế, về môi tr­ường có thể là kết quả của hành vi tập thể của xí nghiệp công nghiệp, đơn vị kinh doanh nào đó”[20].

Nói tóm lại, pháp nhân không phải là một chủ thể trừu tượng mà là một chủ thể độc lập, có ý chí. Pháp nhân có thể, với nhiều danh nghĩa, được so sánh với con người. “Nó có bộ não, có hệ thần kinh trung ương kiểm tra những gì nó làm. nó cũng có tay để cầm công cụ và hành động theo các mệnh lệnh của hệ thần kinh trung ương”[21]. Như vậy, pháp nhân rõ ràng là một thực thể có ý chí, có mong muốn riêng của mình, đ­ược xử sự tự do và hư­ởng quyền tự chủ của chủ thể có thể so sánh với quyền tự chủ của cá nhân và vì vậy có năng lực thực hiện tội phạm một cách có lỗi và đ­ương nhiên có thể bị xử lý về hình sự. Theo quan niệm đã được thừa nhận chung, lỗi trong luật hình sự là thể hiện tự do ý chí của chủ thể (tự do lựa chọn hành vi trái pháp luật, gây hại cho quan hệ xã hội trong khi có tự do và có khả năng lựa chọn hành vi hợp pháp) thì pháp nhân cũng hoàn toàn tự do khi lựa chọn hành vi của mình. Vì vậy, trừ một số tội phạm được kết tội khách quan (strict liability) ở một số quốc gia theo hệ thống common law, việc quy kết TNHS cho pháp nhân là hoàn toàn hợp lý trên cơ sở lỗi chứ không phải là quy tội khách quan.

– Một vấn đề nữa đặt ra là pháp nhân không tự mình thực hiện tội phạm mà phải qua hành vi của các cá nhân. Vậy thì, việc quy kết hành vi đó cho pháp nhân là có hợp lý hay không.

Nhìn chung tuyệt đại đa số các học giả ủng hộ thiết lập TNHS của pháp nhân trong luật hình sự đều ủng hộ học thuyết đồng nhất hoá hành vi của tập thể với hành vi cá nhân trong những điều kiện nhất định[22]. Xuất phát từ sự tương tự hình thức giữa pháp nhân và cá nhân, những ngư­ời ủng hộ học thuyết này quy kết sự biểu lộ các quyết định của tập thể vào sự tồn tại một ý chí thống nhất trong cá nhân của ng­ười đại diện, ng­ười lãnh đạo pháp nhân. Các pháp nhân có ý thức, ý chí, mong muốn của riêng mình cùng với tư­ cách như­ các cá nhân. Theo quy định của pháp luật, quy chế, điều lệ của pháp nhân thì ng­ười đại diện, ng­ười lãnh đạo được thay mặt cho pháp nhân ra các quyết định, thực hiện các hành vi thuộc thẩm quyền của pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân. Mọi hậu quả có lợi cũng như bất lợi phát sinh từ hành vi theo sự lựa chọn trên cơ sở tự do ý chí của ng­ười đại diện, ng­ười lãnh đạo đều do pháp nhân thụ hưởng hoặc gánh chịu. Vì vậy, khi ng­ười đại diện, ng­ười lãnh đạo thực hiện nghĩa vụ hoặc nhiệm vụ của pháp nhân thì ý chí và hành vi của họ đ­ược đồng nhất hoá với pháp nhân, tức là được coi như­ là ý chí và hành vi của pháp nhân[23]

– Các nhà hình sự học ủng hộ TNHS của pháp nhân cũng đã phản bác quan điểm cho rằng các pháp nhân về bản chất là những thực thể vô hình nên không thể áp dụng hình phạt đối với nó.

 Theo các nhà hình sự học theo quan điểm này, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học về hình phạt, quan điểm không thể áp dụng hình phạt với pháp nhân đã không còn có sức thuyết phục. Mặc dù tử hình hoặc các hình phạt tước hoặc hạn chế quyền tự do thân thể không thể áp dụng với pháp nhân phạm tội nh­ưng những loại hình phạt khác dần dần đư­ợc phát triển tương hợp hoàn toàn với bản chất các tổ chức và pháp nhân phạm tội với mục đích làm cho nó phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của hành vi phạm tội mà nó đã gây ra cho xã hội. Năm 1880, trong một quyết định xử phạt một pháp nhân về tội phỉ báng và bôi nhọ (defamatory libel)[24], Lord Blacburn, thẩm phán viện nguyên lão (house of lord) đã nhận định: “Trong một mức độ nhất định, tôi đồng ý là pháp nhân không thể bị phạt tù, một pháp nhân không thể bị treo cổ hoặc bị phạt tử hình nếu hình phạt như vậy là hình phạt cho trọng tội liên quan. Nhưng, phạt tiền có thể buộc một pháp nhân phải chịu và pháp nhân này có thể trả tiền bồi thường thiệt hại vật chất. Vì vậy, tôi hoàn toàn không đồng ý với quan điểm cho rằng một thực thể pháp lý được thành lập với mục đích phát hành báo chí, không thể bị xét xử và tuyên phạt một hình phạt tiền… hoặc với quan điểm là một pháp nhân gây hại cho cộng đồng nhưng lại không thừa nhận pháp nhân này phạm tội gây thiệt hại đó hoặc một tội tương tự”(Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức).

Lịch sử phát triển pháp luật hình sự trong thế giới hiện đại cho thấy rõ xu hướng giảm hoặc thay thế các hình phạt được cho là truyền thống quá nghiêm khắc như tử hình, tước tự do bằng các hình phạt nhân đạo hơn không tước tự do nhưng có giá trị phòng ngừa cao hơn, đặc biệt là các hình phạt liên quan đến tài sản hoặc hoạt động của tổ chức. Pháp nhân có các quyền và có tài sản. Vì vậy, đối với pháp nhân có thể áp dụng các hình phạt tước hoặc hạn chế quyền hoặc tài sản. Kinh nghiệm tư pháp hình sự trong lĩnh vực này ở nhiều nước như Anh, Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Trung Quốc… đã chỉ ra rằng hệ thống hình phạt đủ mềm dẻo để cung cấp những hình phạt và những biện pháp cưỡng chế phù hợp cho việc xử phạt các tổ chức liên quan đến sự tồn tại của nó như­ giải thể, đóng cửa; liên quan đến hoạt động của nó như­ cấm tiến hành những hoạt động nhất định; hoặc liên quan đến tài sản như­ phạt tiền, tịch thu tài sản… các hình phạt này không chỉ có tính cưỡng chế, mà còn có giá trị phòng ngừa cao.

Quan điểm cho rằng việc quy kết TNHS và áp dụng hình phạt với pháp nhân sẽ không công bằng và không phù hợp với nguyên tắc cá thể hoá hình phạt là không phù hợp với quan điểm hình sự học hiện đại. Ngược lại, có thể nói việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân phạm tội còn thể hiện nguyên tắc công bằng và bình đẳng, nguyên tắc mọi hành vi phạm tội không thoát khỏi sự trừng trị của pháp luật hình sự đư­ợc củng cố (Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức).

Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức
Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức

Theo khoa học hình sự hiện đại thì nguyên tắc cá thể hoá hình phạt không thể tách rời khỏi nhận thức về chế tài áp dụng đối với pháp nhân, tổ chức. Nếu pháp nhân, tổ chức là những thực thể có khả năng phạm tội thì có lý nào các pháp nhân lại không bị chịu sự trách cứ về hình sự của nhà n­ước khi nó phạm tội. Chế tài hình sự buộc phải áp dụng trực tiếp và chỉ đối với chính bản thân chủ thể phạm tội, tức là đòi hỏi việc trừng trị nhằm trực tiếp vào những tổ chức, khi các thực thể này phạm tội[25]. Công bằng không có nghĩa là phải trừng trị cá nhân này hoặc cá nhân khác, thành viên của tổ chức hoặc pháp nhân có liên quan nhiều hơn mà công bằng chính là buộc tổ chức cụ thể phạm tội phải chịu hình phạt. Không có lý lẽ công bằng nào mà lại buộc cá nhân những ngư­ời cấp d­ưới vốn chẳng có quyền hành gì và các nhà quản lý có trách nhiệm thành những ngư­ời phải hứng chịu hậu quả thay cho tổ chức phạm tội[26]. Cũng không có sự công bằng nào mà về cùng một hành vi phạm tội lại có những cách đối xử khác nhau, đối với pháp nhân phạm tội cùng loại thì xử lý bằng các biện pháp trách nhiệm dân sự hoặc trách nhiệm hành chính, còn đối với cá nhân những người lãnh đạo, người đại diện của pháp nhân phạm tội vì lợi ích hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân lại bị trừng trị bằng biện pháp TNHS nghiêm khắc hơn nhiều.

Trong những tr­ường hợp tổ chức phạm tội thì “công lý đòi hỏi phải có hình phạt trực tiếp đối với bản thân tổ chức đó. Và đến lư­ợt mình, bằng cách thúc đẩy và củng cố nhận thức chung của công dân và đòi hỏi các tổ chức phải quản lý, kiểm soát những nguy cơ gây hại một cách tốt hơn, các hình phạt này buộc các tổ chức nói trên phải thiết lập những hệ thống quản lý và kiểm soát nguy cơ một cách có hiệu quả, qua đó góp phần bảo vệ môi trường và sức khoẻ của công dân”[27].

Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt không thể tách rời mối liên hệ giữa tội phạm và hình phạt. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đòi hỏi hình phạt áp dụng đối với pháp nhân, tổ chức phạm tội phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tương xứng với các đặc điểm của tổ chức bị truy cứu TNHS. Có như vậy, hình phạt được áp dụng mới đạt được tính hiệu quả trong trừng trị cũng như phòng ngừa (Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức).

Quan điểm cho rằng việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân phạm tội là vi phạm nguyên tắc cá thể hoá hình phạt, theo chúng tôi đã có sự nhầm lẫn về nguyên tắc này. Thực tế cho thấy tất cả các bản án đều có thể gây ra những hậu quả cho ngư­ời thứ ba vô can. Bắt giam một ngư­ời hoặc phạt họ với một hình phạt tiền nghiêm khắc có thể cư­ớp đi của gia đình họ một khoản thu nhập như­ng nó không trái với nguyên tắc cá thể hoá hình phạt, bởi vì bản án không trực tiếp nhằm chống lại các thành viên của gia đình ngư­ời bị kết án mà là đối với ng­ười phạm tội. Bản án kết tội đối với một pháp nhân khác với bản án có thể xảy ra của các thành viên pháp nhân, nó không nhằm vào cá nhân các thành viên của pháp nhân mà là chính pháp nhân – chủ thể chịu TNHS.

Tóm lại, có thể nói rằng về mặt lý luận, khoa học hình sự hiện đại đã giải quyết tương đối cơ bản, có cơ sở khoa học và thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, vấn đề TNHS của pháp nhân. Ngày nay, việc thừa nhận TNHS của pháp nhân là xu hướng phát triển chung trong pháp luật hình sự trên thế giới ở mức độ pháp luật quốc tế lẫn pháp luật quốc gia. TNHS của pháp nhân đã chính thức được khuyến nghị trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế[28]. TNHS của tổ chức cũng đã được điều chỉnh về mặt lập pháp trong pháp luật hình sự của nhiều nước trên thế giới, không chỉ ở các nước theo truyền thống common law và châu Âu lục địa mà còn được thừa nhận ở cả một số nước châu Á, trong đó có các nước Asean, các nước đông Á và đặc biệt là Trung Quốc, một nước láng giềng của Việt Nam mà cách đây không lâu còn phản đối kịch liệt việc chấp nhận TNHS của pháp nhân.  

Tuy nhiên, ở các quốc gia, quy định TNHS của tổ chức hoặc pháp nhân xuất phát từ các quan niệm khác nhau về lý luận và điều kiện kinh tế xã hội, nên phạm vi, mức độ cũng như hình thức TNHS được áp dụng cũng có khác nhau. Trong pháp luật hình sự, pháp nhân, tổ chức nào phải chịu TNHS; loại tội phạm nào tổ chức phải chịu TNHS; nếu tổ chức hay pháp nhân phạm tội thì các loại hình phạt nào, các biện pháp tư pháp hình sự nào đươc áp dụng… đang được quy định rất khác nhau ở mỗi quốc gia. (Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của tổ chức)

[1] Xem: Trịnh Quốc Toản, TNHS của pháp nhân trong luật hình sự n­ước Anh, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, kinh tế – luật, số 3. 2002; TNHS của pháp nhân trong luật hình sự vương quốc Bỉ, Tạp chí Nhà nư­ớc & pháp luật, số 3/2003; TNHS của pháp nhân trong luật hình sự Hà Lan, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 2(50)/2003; Phạm vi và điều kiện áp dụng TNHS của pháp nhân trong luật hình sự Anh, tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, kinh tế – luật, số 1. 2003; TNHS của pháp nhân trong luật hình sự Pháp, Tạp chí Nhà nước & pháp luật, số 10/2004.

[2] Xem M.F.C Von Savigny, Traité de droit romain, trad. de ch. ruenoux, Paris, librairie firmin didot 1841, t.2, 311 et s.

[3] Xem Leffort, Precis de droit criminel, Paris, Sirey, 1877, 218,219.

[4] Xem M.F.C Von Savigny, Traité de droit romain, trad. tài liệu đã dẫn, p. 312.

[5] Xem M.F.C Von Savigny, Traité de droit romain, trad. p. 312.

[6] Xem A. Braas, Précis de droit criminel, Bruxlles- liège, Bruylant, 1946, no 122.

[7] Xem Haus, Principes généraux de droit pénal belge, Gand, Librairie générale ad. hoste, no 266.

[8] Xem  A. Braas, Précis de droit criminel. Tài liệu đã dẫn, số 122; J. Constant, traité élémentaire de droit pénal, liège, imp. nationales, 1965, t.1, 155.

[9] Xem R. Garraud, Traité de droit criminel, Paris, Sirey, 1926, 69.

[10] Xem Donnedieu De Vabres, Traite de droit criminel et de législation pénale comparée. Tài liệu đã dẫn, tr. 149.

[11] Xem: Kensuke itoh, Những thành tựu và hạn chế về mặt lý luận trong việc pháp luật hoá TNHS của tổ chức tại Nhật Bản trong sách luật Nhật Bản, 1993-1997, Nxb. Thanh niên, 2000, tr. 166. Maistre, Les personnnes morales et le probleme de leur reponsabilité pénale, Paris, A. Rousseaus, 1889, 275 et s.

[12] Xem S. Glaser, L’etat en personns morales et le probleme de leur reponsabilité pénale, r.d.p.c., 1948-1949, 444.

[13] Xem Donnedieu De Vabres, Traite de droit criminel et de législation pénale comparée, Paris, Sirey, 1947,149.

[14] Xem A. Huss, Sanctions pénales et les personns morales, r.d.p.c., 1975-1976, 674.

[15] Xem Thomas Hobbes, Léviathan, Trad. par  f. tricaud, Paris, Sirey, 1971, 247.

[16]Actes du congrès (1920).  

[17]Xem M. Hauriou aux sources du droit: Le pouvoir, L’ordre et la liberté, Cahiers de la nouvelle journée, (23) Paris, Bloud & gay, 1933, 126-127.

[18] Xem M. Delmas-marty, Droit pénal d’affaires, Paris, 1993, 109; Y. Mayaud, La volonté à la lumière du nouveau code pénal, in mélanges en l’honeur du professeur j. languier, grenoble, pug, 1993, p. 214.

[19]Xem Arthur Taylor Von Mehren & James Russell Gordley, The civil law system – an introduction to the comparative study of law, second edition, little, Brown & company. Boston & Toronto, 1977.

[20] Đào Trí Úc, Nhận thức đúng đắn hơn nữa các nguyên tắc về trách nhiệm cá nhân và lỗi trong việc xử lý TNHS, Tạp chí Nhà nư­ớc và pháp luật, số 9/1999. tr. 75.

[21] Xem: H.L. Bolton (eningeering) Company ltd. v. T.J. Graham &son ltd (1957) i.q.b.159, 172.

[22] Các học thuyết về cơ sở TNHS của pháp nhân sẽ được phân tích cụ thể hơn ở mục 1.2 của đề tài.

[23] Xem Phạm Hồng Hải, Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không? Tài liệu đã dẫn, tr.16.

[24] The pharmaceutical society. v. The London and provincial supply association ltd (1880) 5 app. cas. 857, 869, 870.

[25] Xem V. Simonart, la personalité morale en droit comparé, Bruxelles, Bruylant, 1995, 256.

[26] Xem: Kensuke Itoh, Những thành tựu và hạn chế về mặt lý luận trong việc pháp luật hoá TNHS của tổ chức tại Nhật Bản, Tài liệu đã dẫn, tr. 166. 

[27]  Xem: Kensuke Itoh, Những thành tựu và hạn chế về mặt lý luận trong việc pháp luật hoá TNHS của tổ chức tại Nhật Bản, Tài liệu đã dẫn, tr. 166. 

[28] Nội luật hóa TNHS của pháp nhân là đối tượng khuyến cáo trong trong các văn bản như Công ước quốc tế về trừng trị việc tài trợ cho khủng bố của liên hợp quốc; Công ư­ớc về đấu tranh chống tham nhũng năm 1997; Công ước về bảo vệ môi trường bằng pháp luật hình sự đã được mở ra cho các nước thành viên tham gia ký từ ngày 4 tháng 11 năm 1998; Công ước liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Công ước liên hợp quốc về chống tham nhũng; Khuyến cáo số 12 và 18 năm 1982 và 1988 của Ủy ban các bộ trưởng hội đồng châu Âu về tình trạng tội phạm về kinh tế, thương mại; Công ước cộng đồng châu Âu về chống tham nhũng bằng luật hình sự…

LIÊN HỆ :

FANPAGE: https://www.facebook.com/viennghiencuukinhtevaphapluat

CẢM ƠN QUÝ BẠN ĐỌC ĐÃ GHÉ THĂM WEDSITE!

By admin

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *