đặc sản chứng thực

Phần thứ nhất

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

I. KHÁI NIỆM CHỨNG THỰC VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG THỰC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1. Khái niệm

a) Khái niệm chứng thực

Để hiểu được khái niệm pháp luật về chứng thực, trước hết, cần làm rõ khái niệm “chứng thực”. “Chứng thực” là một thuật ngữ khá phức tạp, cần được tìm hiểu dưới góc độ ngôn ngữ học và dưới góc độ khoa học pháp lý và quản lý. Do vậy, cần phải so sánh, tìm hiểu các quan niệm khác nhau về chứng thực ở trong nước cũng như những khái niệm tương ứng của khoa học pháp lý nước ngoài.

Về khía cạnh ngôn ngữ, theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ, Nxb Đà Nẵng năm 1997 có một số định nghĩa có liên quan đến chứng thực, sao: “Sao. Chép lại hoặc tạo ra bản khác theo đúng bản gốc (thường nói về giấy tờ hành chính). Sao đúng nguyên văn một tài liệu. Sao y bản chính. Bản sao”. Còn về xác nhận được giải thích : “Xác nhận thừa nhận đúng sự thật chữ kí, xác nhận lời khai”. Về chứng thực được định nghĩa “Nhận cho để làm bằng là đúng sự thật. Chứng thực lời khai. Xác nhận là đúng. Thực tiễn đã chứng thực điều đó”. Như vậy, nghĩa của từ “chứng thực” xét về góc độ ngôn ngữ còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau.

Về khía cạnh pháp lý, khái niệm “chứng thực” hoàn toàn không dễ định nghĩa, để hiểu rõ hơn khái niệm này, cần hiểu về các định nghĩa khác nhau của khoa học pháp lý nước ta qua các thời kỳ, cũng như cách định nghĩa khác nhau của khoa học pháp lý nước ngoài.

– Quan niệm của khoa học pháp lý nước ngoài:

Từ góc độ luật học, qua tham khảo một số tài liệu pháp lý nước ngoài có thể thấy, trong khoa học pháp lý một số nước cũng có những khái niệm tương đương với khái niệm “chứng thực” trong tiếng Việt.

Tại Thụy Sĩ có quy định về hoạt động công chứng và chứng thực. Theo quy định Luật công chứng và chứng thực ngày 30.08.2011 của bang Aargau, Thụy Sĩ điều chỉnh việc công chứng và chứng thực trong phạm vi của bang Aargau. Tại Điều 2 khoản 3 Luật công chứng của Thụy Sĩ: “Việc chứng thực áp dụng đối với chữ ký, bản sao chụp, trích lục, sao chép hoặc bản dịch”. Mặc dù Luật của Thụy Sĩ chưa tách riêng thành Luật công chứng, Luật chứng thực nhưng cũng đã có quy định điều chỉnh về chứng thực.

Theo quy định của Luật công chứng Cộng hoà liên bang Đức ngày 28/9/1969 tại chương III có quy định các việc công chứng khác, điều chỉnh về chứng thực. Cụ thể tại Khoản 1, Điều 42 quy định chứng thực bản sao: “Khi chứng thực bản sao một văn bản cần xác định đó là bản chính”. Tại Điều 39 Luật này cũng quy định về chứng thực đơn giản: Khi chứng thực chữ ký, dấu vân tay, tên hãng cũng như khi chứng thực thời điểm xuất trình giấy tờ cá nhân, chứng thực việc đã vào sổ đăng ký hoặc chứng thực các bản sao lục và các văn bản đơn giản khác thì chỉ cần một văn bản công chứng thay vì biên bản công chứng, trong đó có chữ ký, dấu niêm phong và ghi rõ ngày, nơi lập, văn bản công chứng là đủ.

Tại khoản 1, 2, 3 Điều 40 của Luật này quy định về chứng thực chữ ký: Một chữ ký chỉ được chứng thực bởi công chứng viên biết chữ ký hoặc lấy được chữ ký đó; Công chứng viên chỉ cần kiểm tra lại văn bản xem có tồn tại lý do nào đó gây phương hại đến việc hành nghề của mình; Khi chứng thực phải khái quát nhân thân đương sự – người mà công chứng viên biết hoặc lấy được chữ ký và phải nói rõ là công chứng viên biết trước chữ ký hay vừa lấy chữ ký.

Như vậy, các văn bản pháp luật nước ngoài cũng chỉ đưa ra thuật ngữ “chứng thực” với những việc làm, hành động cụ thể mà không đưa ra khái niệm về “chứng thực”.

– Quan niệm về “chứng thực” trong các văn bản pháp luật trước năm 2015:

+ Trong Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ấn định thể lệ việc thị thực các giấy tờ, Hồ Chủ tịch không dùng thuật ngữ “chứng thực” mà sử dụng thuật ngữ “thị thực”: Các Ủy ban có quyền thị thực tất cả các giấy má trong địa phương mình, bất kỳ người đương sự làm giấy má ấy thuộc về quốc tịch nào. Tuy nhiên, Ủy ban thị thực phải là Ủy ban ở trú quán một bên đương sự lập ước và về việc bất động sản phải là Ủy ban ở nơi sở tại bất động sản.

+ Thông tư số 858/QLTPK là văn bản đầu tiên xuất hiện thuật ngữ “chứng thực”: Tất cả các đơn từ, giấy tờ khác có nội dung không trái pháp luật và đạo đức xã hội chủ nghĩa, thì có thể được công chứng viên chứng thực chữ ký của người lập ra chúng. Khi chứng nhận chữ ký, công chứng viên không phải kiểm tra, xác nhận nội dung của việc trong đơn từ, giấy tờ, mà chỉ cần xem nội dung các văn bản đó có trái pháp luật và các quy định hiện hành hay không? Nếu thấy nội dung và các sự việc nêu trong đơn từ, giấy tờ có thể có hại cho người ký, thì công chứng viên giải thích cho đương sự hiểu hậu quả pháp lý của nó. Sau khi đã kiểm tra chữ ký của đương sự, công chứng viên phải yêu cầu đương sự ký vào đơn từ, giấy tờ và ghi chứng thực theo mẫu.

+ Nghị định số 31/CP đã giao cho UBND thực hiện việc chứng thực: Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh chứng thực các việc do pháp luật quy định và chứng thực bản sao giấy tờ từ bản chính, trừ các việc được quy định tại khoản 1, 2 Điều 18 của Nghị định này Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực việc từ chối nhận di sản, chứng thực di chúc và các việc khác do pháp luật quy định.

+ Nghị định số 75/2000/NĐ-CP là văn bản đầu tiên đưa ra khái niệm “chứng thực” là gì: Chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này”.

+ Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký không có khái niệm chung về “chứng thực” mà chỉ đưa ra khái niệm về chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký: “Chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 5 của Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính”; “Chứng thực chữ ký là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 5 của Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người đã yêu cầu chứng thực”.

– Khái niệm “chứng thực” trong pháp luật hiện hành

Theo Nghị định số 23/2015/NĐ-CP Chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính. “Chứng thực chữ ký” là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người yêu cầu chứng thực. “Chứng thực hợp đồng, giao dịch” là việc cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch”. Về cơ bản, Nghị định này kế thừa khái niệm về “chứng thực” của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP và bổ sung thêm quy định mới về khái niệm “chứng thực hợp đồng, giao dịch”.

Như vậy, trải qua các thời kỳ đến nay, chưa có văn bản pháp luật nào đưa ra một khái niệm rõ ràng, bao quát được đúng bản chất của hoạt động chứng thực, mà chủ yếu đưa ra khái niệm chứng thực của một việc cụ thể nào đó. Tuy nhiên, phân tích từ các khái niệm nêu trên thì có thể đưa ra một khái niệm chung nhất: Chứng thực là việc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng thực xác nhận tính chính xác, tính có thực của các giấy tờ, văn bản, chữ ký của cá nhân, các sự kiện pháp lý, thông tin cá nhân để phục vụ trong các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính…

b) Phân biệt sự khác nhau giữa “chứng thực” và “công chứng”

Theo Luật công chứng thì “công chứng” là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.

phân biệt công chứng và chứng thực

Như vậy, “công chứng” là hoạt động chứng nhận tính xác thực, còn chứng thực là hoạt động xác nhận. Xét về mặt ngữ nghĩa, thì hai từ “chứng nhận” và “xác nhận” có khác nhau về mức độ cao thấp trong mối liên hệ với thực tế và khác nhau về quy trình thao tác. “Xác nhận” có nghĩa là thừa nhận là đúng sự thật. Thông thường, “xác nhận” chỉ mang tính chất bàn giấy (VD: xác nhận chữ ký, xác nhận lời khai…). Còn “chứng nhận” có nghĩa là nhận cho để làm bằng là có, là đúng sự thật (Từ điển Tiếng Việt – NXB Đà Nẵng 1996). Để chứng nhận một sự việc, thông thường người chứng nhận phải qua một loạt thao tác kiểm tra, xác minh, đối chiếu.v.v… (VD: chứng nhận hợp đồng…). Tóm lại, có thể hiểu là hành vi xác nhận có tính chất đơn giản hơn, ít phức tạp hơn hành vi chứng nhận. Nếu để thực hiện hành vi công chứng, công chứng viên phải thực hiện một chuỗi các thao tác như: xác định tư cách chủ thể của các bên trong hợp đồng, giao dịch; xác định đúng đối tượng của hợp đồng, giao dịch; giúp các bên trong hợp đồng, giao dịch thể hiện ý chí của mình một cách rõ ràng, chính xác, đúng pháp luật; chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch…; nhưng để thực hiện hành vi chứng thực, người thực hiện chứng thực chỉ đơn thuần tiếp nhận, kiểm tra, đối chiếu… giấy tờ. Vì vậy, đối tượng của hành vi chứng thực chủ yếu là các giấy tờ (VD: chứng thực bản sao các giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ…); người thực hiện chứng thực chỉ chứng nhận hành vi pháp lý xảy ra mà không chịu trách nhiệm về nội dung của hành vi đó.

2. Vai trò của pháp luật về chứng thực

Thứ nhất, pháp luật về chứng thực tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động chứng thực và quản lý chứng thực

Căn cứ vào các quy định của pháp luật về chứng thực, cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu được quyền, nghĩa vụ của mình khi có yêu cầu chứng thực; các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng thực có cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng của mình.

Về mặt quản lý nhà nước, đó là các hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan hành pháp khi thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được nhà nước giao trong việc quản lý chứng thực. Thông qua hoạt động quản lý nhà nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nắm bắt được các nhu cầu về việc sử dụng bản sao có chứng thực, giấy tờ, văn bản có chứng thực chữ ký, qua đó, đưa ra những chính sách phù hợp để điều chỉnh hoạt động này đúng với yêu cầu của quản lý, tránh việc sử dụng tràn lan gây lãng phí cho xã hội.

Thứ hai, pháp luật về chứng thực tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền nhân thân của công dân.

Do Bản sao được chứng thực từ bản chính có giá trị sử dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Chữ ký được chứng thực có giá trị chứng minh người yêu cầu chứng thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản. Hợp đồng, giao dịch được chứng thực có giá trị chứng cứ chứng minh về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.

Như vậy, xét về mục đích chung, thì thông qua hoạt động chứng thực, Nhà nước cung cấp dịch vụ công nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho hợp đồng, giao dịch, tạo lập giá trị pháp lý cho các giấy tờ, văn bản được chứng thực phục vụ nhu cầu sử dụng, tạo sự tin tưởng vững chắc cho các tổ chức, cá nhân khi sử dụng và thực hiện thủ tục hành chính nói chung. Qua đó, giúp cho người thực hiện giao dịch của mình được thuận lợi hơn. Thực tế cũng cho thấy, việc sử dụng bản sao có chứng thực một cách hợp lý đã góp phần giảm chi phí đi lại, giảm rủi ro thất lạc bản chính giấy tờ, văn bản của người dân.

Có thể nói, hoạt động chứng thực không chỉ mang tính chất dịch vụ công, phục vụ lợi ích thiết thực của nhân dân, mà còn là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép công dân, tổ chức thực hiện một cách hợp pháp các giao dịch của mình; điều kiện cần để các giao dịch dân sự được bảo đảm thực hiện trên thực tế và là cơ sở pháp lý để tòa án giải quyết cho các bên đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khi có tranh chấp xảy ra; công cụ hỗ trợ cho chức năng quản lý nhà nước trong thực tiễn quản lý, giản tiện những thủ tục có liên quan đến các loại giấy tờ cần thiết.

II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT CHỨNG THỰC Ở VIỆT NAM

1. Hoạt động công chứng, chứng thực từ khi thực dân Pháp đô hộ Đông Dương đến năm 1975

Vài năm sau khi người Pháp đến Đông Dương, Chính quyền thực dân đã ban hành Sắc lệnh ngày 25-7-1864 lập ra thiết chế Công chứng ở Đông dương. Các chức năng của công chứng viên đã được giao cho các công chức ở nhiều cơ quan khác nhau (lục sự toà, viên chức, công chứng viên người Pháp ở Sài Gòn, Hà Nội, Phnômpênh. Phòng Công chứng đầu tiên ở Sài Gòn đặt tại phố Pasteur; Sau chiến tranh thế giới thứ hai, 3 Phòng Công chứng ở Sài Gòn được thành lập. Từ khi Việt Nam nằm dưới sự thống trị của Pháp, các chức năng của công chứng viên luôn được dành riêng cho người Pháp, người châu Âu.

Cách mạng Tháng Tám thành công (năm 1945), bộ máy Nhà nước thực dân – phong kiến bị đập tan, cùng với việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới. Ngày 15-11-1945, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 59/SL về việc ấn định thể lệ thị thực các giấy tờ. Đây là văn bản có giá trị pháp lý cao của Chính phủ cách mạng lâm thời được ban hành để xác định thẩm quyền thị thực, phạm vi thẩm quyền địa hạt, trách nhiệm của người thị thực và lệ phí thị thực. Theo quy định của Sắc lệnh này trong các làng, quyền thị thực các giấy tờ trước do hương chức trong làng thi hành nay thuộc về ủy ban nhân dân của làng; ở các thành phố, quyền thị thực trước do trưởng phố hay hộ phố thi hành, nay cũng thuộc về ủy ban nhân dân hàng phố. Chủ tịch Ủy ban nhân dân sẽ phụ trách việc thị thực này và phải đề cử một hay hai ủy viên để thay mặt mình khi vắng mặt hoặc khi chính mình là người đương sự có giấy cần đem thị thực hoặc khi người đương sự đối với mình có thân thuộc về trực hệ như cha, mẹ, ông, bà… Các Ủy ban có quyền thị thực tất cả các giấy má trong địa phương mình.

Ngày 29/02/1952, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ký Sắc lệnh số 85/SL quy định thể lệ trước bạ về việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất. Theo Sắc lệnh này, thẩm quyền thị thực các giấy tờ liên quan đến chuyển dịch bất động sản, đất đai giao cho Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp thực hiện. Theo đó, thì trước khi đem trước bạ văn tự các việc mua bán, cho và đổi nhà cửa, ruộng đất phải Ủy ban kháng chiến hành chính xã hay thị xã nhận thực chữ ký của các người mua, bán, cho, nhận đổi và nhận thực những người bán, cho hay đổi là chủ những nhà cửa, ruộng đất đem bán, cho hay đổi. Việc nhận thực này không phải trả một khoản tiền nào.

Ngày 29-11-1954 Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã ký ban hành Dụ số 43 về Quy chế Công chứng. Đây là một văn bản về tổ chức và hoạt động công chứng mang tính kế thừa các quy định về công chứng tại miền Nam trước đó và bị ảnh hưởng rất nhiều công chứng của Pháp.Sau năm 1954 ở miền Nam, chính quyền Sài Gòn vẫn duy trì mô hình công chứng của Pháp tại Việt Nam và tổ chức lại từ 3 Phòng Công chứng cũ của người Pháp thành một Phòng Công chứng và bổ nhiệm các công chứng viên là người Việt Nam thay các công chứng viên là người Pháp. Phòng Công chứng này hoạt động cho đến trước ngày miền Nam được giải phóng (30-4-1975). Phòng Công chứng được đặt dưới sự quản lý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp của Việt Nam Cộng Hoà.

2. Hoạt động công chứng, chứng thực giai đoạn 1975-1986

Ở miền Nam: Sau khi miền Nam được giải phóng, các cơ quan hành chính của chính quyền cũ bị xoá bỏ, thay vào đó là các Uỷ ban tiếp quản có nhiệm vụ điều hành rất nhiều công việc hành chính ngổn ngang, ổn định cuộc sống, khắc phục những viết thương chiến tranh. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh với tốc độ nhanh trong các vùng mới giải phóng. Sau khi Phòng công chứng tại Sài gòn ngừng hoạt động, những người làm công chứng, thị thực tại Phòng Công chứng đã di tản ra nước ngoài hoặc đã chuyển sang làm các nghề mới. Các cơ quan hành chính, các toà án phải trải qua quá trình tổ chức lại cho phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Nhà nước cũng chưa có điều kiện để thành lập lại một hệ thống cơ quan công chứng chuyên trách phù hợp với điều kiện và tình hình mới. Các việc công chứng, thị thực được giao phân tán cho nhiều cơ quan khác nhau thực hiện như: Uỷ ban nhân dân cấp xã, UBNN cấp huyện, toà án, công an, cơ quan địa chính, cơ quan nhà đất.

Ở miền Bắc: Cuộc chiến tranh biên giới chống bọn Pônpot Campuchia (1975-1979) và chống lại sự tiến công của Trung quốc vào 6 tỉnh phía bắc Việt Nam, cùng với sự cấm vận của Mỹ đới với Việt Nam, đã không cho phép Nhà nước Việt Nam đẩy nhanh công cuộc xây dựng cộng hòa xã hội. Việc kiện toàn và phát triển các thể chế trong đó có thể chế tư pháp, luật sư, công chứng, thừa phát lại, mặc dù được quan tâm của Nhà nước và có sự giúp đỡ nhiệt tình của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, song được tiến hành rất chậm do nhiều nguyên nhân như: cơ sở hạ tầng kinh tế còn thấp, đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo chuyên ngành luật còn quá ít, chưa có sự hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm của các nước tiến tiến trên thế giới và khu vực. Trong khi chờ ban hành Bộ luật dân sự và các văn bản về tổ chức, kiện toàn hệ thống các cơ quan hành chính, tư pháp trong đó có luật sư, công chứng, thì các việc công chứng, thị thực cũng vẫn được giao phân tán cho nhiều cơ quan khác nhau thực hiện như: Uỷ ban nhân dân cấp xã, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, toà án, công an, cơ quan địa chính, cơ quan nhà đất.

3. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm trước 2000

Ngày 10-10-1987, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 574/QLTPK hướng dẫn thực hiện các việc công chứng Nhà nước. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên về tổ chức được ban hành để khai sinh ra những Phòng Công chứng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, là bước thử nghiệm một mô hình công chứng theo kiểu công chứng của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, tạo tiền đề để xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật ở mức cao hơn trong những năm tiếp theo. Theo Thông tư này thì công chứng nhà nước là một hoạt động của nhà nước, nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã được thực hiện những việc làm công chứng sau: chứng thực chữ ký; chứng nhận bản sao giấy tờ, tài liệu; chứng nhận giấy ủy quyền; chứng nhận các hợp đồng về chuyển dịch tài sản và các hợp đồng có ý nghĩa khác; chứng nhận di chúc và văn bản thuận phân chia tài sản thừa kế. Ủy ban nhân dân huyện, xã phải ra quyết định giao cho Ủy viên thư ký hay cán bộ phụ trách công tác tư pháp của Ủy ban thực hiện những việc làm công chứng nói trên. Cán bộ được giao thực hiện những việc làm công chứng phải chịu trách nhiệm cá nhân về việc làm của mình, được phép ký và sử dụng con dấu của Ủy ban nhân dân cấp mình, khi thực hiện các việc làm công chứng. Những cán bộ này phải được tập huấn về công tác công chứng nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp. Ngoài ra, nội dung của Thông tư này còn đề cấp đến những vấn đề chủ yếu như: xác định mục đích của công tác công chứng, thành lập Phòng Công chứng Nhà nước thí điểm, lệ phí công chứng, quản lý hoạt động công chứng nhà nước.

Ngày 15/10/1987 Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 858/QLTPK về hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng: Theo Thông tư này quy định những yêu cầu cơ bản đối việc làm công chứng như: bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, giúp đỡ công dân, các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội trong việc thực hiện và bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ, giữ bí mật việc làm công chứng, địa điểm thực hiện việc làm công chứng, đảm bảo thời hạn các việc làm công chứng… Thông tư còn quy định trình tự, thủ tục các việc làm công chứng như: chứng thực chữ ký, chứng nhận bản sao giấy tờ, tài liệu, chứng nhận giấy ủy quyền… Có thể nói, Thông tư này đã có quy định khá cụ thể, chi tiết về việc chứng thực chữ ký và chứng thực bản sao từ bản chính (mặc dù chưa sử dụng khái niệm về chứng thực hoặc sử dụng lẫn lộn cả thuật ngữ công chứng với chứng thực). Theo đó, khi chứng nhận chữ ký, công chứng viên không phải kiểm tra, xác nhận nội dung của sự việc trong đơn từ, giấy tờ, mà chỉ cần xem nội dung các văn bản đó có trái pháp luật và các quy định hiện hành hay không? Nếu thấy nội dụng và các sự việc nêu trong đơn từ, giấy tờ có thể có hại cho người ký, thì công chứng viên giải thích cho đương sự hiểu hậu quả pháp lý của nó. Còn việc chứng nhận bản sao là xác nhận bản đó đúng như bản chính. Các giấy tờ, tài liệu mà bản sao cần chứng nhận công chứng phải là loại giấy tờ, tài liệu thuộc thẩm quyền sao của các cơ quan công chứng ngoài phạm vi thẩm quyền của các cơ quan nhà nước khác. Công chứng viên phải kiểm tra kỹ nội dung của văn bản, tài liệu, đối chiếu, so sánh với văn bản sao. Điều kiện để chứng nhận bản sao là bản gốc phải đúng, không tẩy xóa, chữ viết rõ ràng, bằng loại mực bền… Bên cạnh đó, Thông tư còn ban hành kèm theo các mẫu lời chứng chứng thực chữ ký, chứng nhận bản sao, giấy ủy quyền…

Ngày 27-02-1991 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước. Đây là văn bản đầu tiên ở tầm Nghị định quy định về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Nghị định số 45/HĐBT đã quy định những vấn đề rất cơ bản như: Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức của Phòng công chứng. Nhân sự của Phòng Công chứng Nhà nước; điều kiện của công chứng viên, trình tự, thủ tục thực hiện các việc công chứng. Ngoài ra, Nghị định còn quy định việc công chứng của các Ủy ban cấp huyện (nơi chưa có Phòng công chứng nhà nước) thực hiện các việc như: chứng nhận hợp đồng dân sự, chứng nhận giấy ủy quyền, chứng nhận di chúc, chứng nhận bản sao giấy tờ, tài liệu tiếng Việt.

Để hướng dẫn thi hành Nghị định này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành: Thông tư số 276/TT-CC ngày 20/4/1991 hướng dẫn về tổ chức và quản lý công chứng nhà nước, Thông tư số 120/TT-CC ngày 26/2/1992 hướng dẫn việc chứng nhận trị giá tài sản bằng hiện vật thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần, Thông tư số 84/TT-LB ngày 18/12/1992 của liên Bộ Tài chính – Tư pháp quy định chế độ thu lệ phí công chứng.

Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện Nghị định 45/HĐBT, công tác công chứng, chứng thực đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Tuy nhiên, qua một thời gian triển khai thực hiện Nghị định này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Vì vậy Ngày 18/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 31/CP (thay thế cho Nghị định 45/HĐBT ngày 27/02/1991) về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Nghị định này được xây dựng trên cơ sở kế thừa những điểm tích cực của Nghị định 45/HĐBT, nhất là những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn công tác công chứng, kết hợp tham khảo và tiếp thu những kinh nghiệm của nước ngoài. So với Nghị định số 45/HĐBT, thì Nghị định này có một số điểm mới rất đáng chú ý như xác định rõ nội hàm của việc công chứng, mục đích của hoạt động công chứng và giá trị của văn bản công chứng. Nghị định cũng đã sử dụng thuật ngữ chứng thực trong việc chứng thực bản sao các giấy tờ, văn bản. Theo đó, cả Phòng Công chứng và Ủy ban nhân dân cấp huyện đều có thẩm quyền chứng thực bản sao giấy tờ từ bản chính; Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền chứng thực việc từ chối nhận di sản, chứng thực di chúc và các việc khác do pháp luật quy định.

4. Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2007

Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đến năm 2000, công chứng, chứng thực ở Việt Nam đã chứng tỏ là một công cụ đắc lực phục vụ quản lý nhà nước có hiệu quả góp phần tích cực phòng ngừa tranh chấp, tạo ra sự an toàn pháp lý cho các quan hệ giao dịch trong xã hội. Để đáp ứng nhu cầu công chứng, chứng thực ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức phục vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, chứng thực, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực này vì vậy ngày 08/12/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực. Nghị định được ban hành để khắc phục những điểm còn bất cập của Nghị định số 31/CP tạo điều kiện cho công tác công chứng, chứng thực ở Việt Nam tiếp tục phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, phục vụ tốt hơn nhu cầu công chứng, chứng thực của công dân, doanh nghiệp và tổ chức, góp phần đắc lực hơn trong việc bảo đảm sự an toàn về pháp lý trong các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác, phòng ngừa vi phạm và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã quy định cụ thể về công chứng, chứng thực; phạm vi công chứng, chứng thực, quyền, nghĩa vụ của người thực hiện công chứng, chứng thực, người yêu cầu công chứng, chứng thực; quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực; thẩm quyền công chứng, chứng thực; trình tự, thủ tục thực hiện công chứng, chứng thực…

Theo Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này. Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền Chứng thực bản sao giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài; chứng thực chữ ký của công dân Việt Nam trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch dân sự ở trong nước; Chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản theo thẩm quyền địa hạt quy định tại khoản 2 Điều 23 của Nghị định này; chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản có giá trị dưới 50 triệu đồng; chứng thực văn bản thoả thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản; các việc khác theo quy định của pháp luật. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện ủy quyền cho Trưởng phòng Tư pháp thực hiện các việc chứng thực quy định tại Khoản 1 Điều này. Trưởng phòng Tư pháp phải đăng ký chữ ký tại Sở Tư pháp. Mỗi Phòng Tư pháp phải có cán bộ Tư pháp chuyên trách giúp Trưởng phòng Tư pháp thực hiện việc chứng thực; cán bộ Tư pháp chuyên trách phải có bằng cử nhân Luật và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ chứng thực.

Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền thực hiện chứng thực chữ ký của công dân Việt Nam trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch dân sự ở trong nước; chứng thực di chúc, văn bản từ chối nhận di sản; các việc khác theo quy định của pháp luật. Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phụ trách Tư pháp thực hiện việc chứng thực quy định tại Khoản 1 Điều này và phải đăng ký chữ ký tại Sở Tư pháp. Cán bộ Tư pháp cấp xã giúp Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc chứng thực; cán bộ Tư pháp cấp xã phải có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 13 của Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch và được bồi dưỡng về nghiệp vụ chứng thực.

Bên cạnh đó, Phòng Công chứng được công chứng các việc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 22 của Nghị định này, trừ hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản thuộc thẩm quyền địa hạt của ủy ban nhân dân cấp huyện quy định tại Khoản 2 Điều 23 của Nghị định này và thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã quy định tại Điều 24 của Nghị định này.

Có thể nói, đây là văn bản pháp lý đầu tiên đã phân biệt giữa công chứng và chứng thực. Tuy nhiên, việc phân biệt này chỉ căn cứ trên chủ thể thực hiện. Theo đó, cùng là các việc như nhau nhưng nếu là Phòng Công chứng thực hiện thì được coi là công chứng còn Ủy ban nhân dân thực hiện thì được coi là chứng thực.

Sau 7 năm thực hiện Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực, hoạt động chứng thực của các cơ quan có thẩm quyền đã có những đóng góp lớn trong việc đáp ứng yêu cầu chứng thực của nhân dân. Cả nước đã thực hiện được hơn 49 triệu việc chứng thực bản sao giấy tờ và chữ ký, tạo điều kiện cho người dân, các cơ quan, tổ chức bổ sung các hồ sơ, thủ tục trong nhiều quan hệ, giao dịch, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, trong quá trình thực hiện Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực, cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, thể hiện rõ nhất là tình trạng quá tải, ùn tắc và phiền hà trong việc công chứng, chứng thực bản sao giấy tờ, chữ ký tại các Phòng công chứng và Ủy ban nhân dân cấp huyện.

5. Giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2014

Thực hiện chủ trương tách bạch giữa hoạt động công chứng và chứng thực theo Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ngày 29 tháng 11 năm 2006 Quốc hội Khóa XI tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Công chứng điều chỉnh tổ chức và hoạt động công chứng. Hoạt động chứng thực được điều chỉnh bởi Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Nghị định Số 79/2007/NĐ-CP được xây dựng bám sát các quan điểm như kế thừa và phát triển những quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về chứng thực; quán triệt tinh thần cải cách hành chính nhằm bảo đảm thuận lợi cho nhân dân theo hướng mở rộng chủ thể có thẩm quyền chứng thực, xác định rõ phạm vi của hoạt động chứng thực, đơn giản hoá trình tự, thủ tục chứng thực; thực hiện phân cấp, ủy quyền mạnh mẽ cho Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện các việc chứng thực; nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc giải quyết nhu cầu về chứng thực của nhân dân, giải quyết triệt để tình trạng ách tắc, phiền hà, tiêu cực trong hoạt động chứng thực.

Nghị định gồm 4 Chương, 25 Điều quy định cụ thể về giá trị pháp lý của bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao được chứng thực từ bản chính, chữ ký được chứng thực; thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao; lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực; trình tự, thủ tục cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; quản lý nhà nước về chứng thực. Đề đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, Ngày 20/01/2012 Chính phủ ban hành Nghị định số 04/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung Điều 5 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, Ngày 02/02/2012 Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2012/NĐ-về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực. Riêng đối với việc chứng thực hợp đồng, giao dịch của Ủy ban nhân dân cấp huyện và UBND cấp xã tại những địa bàn chưa chuyển giao việc chứng thực hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng, vẫn tiếp tục thực hiện theo Nghị định số 75/2000/NĐ-CP.

Sau hơn 06 năm thi hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP và các Nghị định có liên quan trong lĩnh vực chứng thực, hoạt động chứng thực, nhất là chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký đã từng bước đi vào nền nếp; việc phân cấp thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký cho Phòng Tư pháp và UBND cấp xã đã góp phần củng cố đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác chứng thực, đồng thời giải quyết một cách cơ bản tình trạng ùn tắc tại các Phòng Công chứng mà nhiều năm trước đó chưa giải quyết được; việc đơn giản hoá về trình tự, thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết đã đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức khi có yêu cầu chứng thực.

6. Giai đoạn từ tháng 4/2015 đến nay

Đề khắc phục những tồn tại, hạn chế nhất là quy định về phân định thẩm quyền chứng thực phân biệt rõ ràng về tính chất, phạm vi chứng thực hợp đồng, giao dịch với công chứng hợp đồng, giao dịch,…Ngày 16/02/2015 Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, thay thế Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, Nghị định số 04/2012/NĐ-CP, Điều 4 của Nghị định số 06/2012/NĐ-CP, các quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực. Nghị định này bao gồm V chương, 49 Điều với nhiều điểm mới so với các văn bản trước đó.

PHẦN THỨ HAI

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 23/2015/NĐ-CP NGÀY 16/02/2015 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ CẤP BẢN SAO TỪ SỔ GỐC, CHỨNG THỰC BẢN SAO TỪ BẢN CHÍNH, CHỨNG THỰC CHỮ KÝ VÀ CHỨNG THỰC HỢP ĐỒNG, GIAO DỊCH

đặc sản pháp luật chứng thực

I. SỰ CẦN THIẾT, QUAN ĐIỂM, BỐ CỤC CỦA NGHỊ ĐỊNH

1. Sự cần thiết ban hành Nghị định

Sau khi Luật công chứng (Luật số 82/2006/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006) có hiệu lực thi hành thì hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực đã có sự tách bạch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả như trên, công tác chứng thực vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như sau:

Thứ nhất, việc phân định thẩm quyền chứng thực còn phức tạp, chồng chéo

– Về thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính: Theo Nghị định số 04/2012/NĐ-CP, việc phân định thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản giữa UBND cấp xã, Phòng Tư pháp là dựa trên loại giấy tờ, văn bản (Phòng Tư pháp có thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài và giấy tờ, văn bản song ngữ; UBND cấp xã chỉ có thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt). Trong khi đó, các khái niệm về “giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt”, “giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài”, “giấy tờ, văn bản song ngữ” cũng chưa được quy định rõ ràng, từ đó gây khó khăn cho cơ quan thực hiện chứng thực, chính vì vậy trong một số trường hợp, yêu cầu chứng thực của người dân đã bị từ chối giải quyết.

– Về thẩm quyền chứng thực Giấy ủy quyền: Trong cuộc sống phát sinh nhiều việc ủy quyền đơn giản, không có thù lao, không có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền, không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản (ví dụ như ủy quyền lĩnh lương hưu, trợ cấp, ủy quyền nhận bưu phẩm, ủy quyền nộp hồ sơ…), tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật dân sự thì ủy quyền là một loại giao dịch nên UBND cấp xã không có thẩm quyền chứng thực. Do đó, khi có yêu cầu này, người dân phải đến các tổ chức hành nghề công chứng hoặc UBND cấp huyện. Quy định này đã gây phiền hà, tốn kém cho người dân, không đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.

– Về thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản có giá trị dưới 50 triệu đồng:

Theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì UBND cấp huyện có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản có giá trị dưới 50 triệu đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, việc định giá tài sản là rất khó khăn, hầu hết phụ thuộc vào việc khai nhận của người mua, bán tài sản. Bên cạnh đó, có rất nhiều các giao dịch liên quan đến động sản có giá trị thấp, giao dịch không phức tạp, thân nhân người tham gia giao dịch rõ ràng, tần suất thực hiện giao dịch cao (ti vi, điện thoại đắt tiền …) là đối tượng giao dịch thường xuyên thì người dân vẫn phải đến tổ chức hành nghề công chứng hoặc UBND cấp huyện thực hiện, điều này vừa gây phiền hà, tốn kém (tăng chi phí, thời gian đi lại), vừa không phù hợp tính chất của giao dịch.

Thứ hai, chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa tính chất, phạm vi chứng thực hợp đồng, giao dịch với công chứng hợp đồng, giao dịch

Thực hiện chủ trương tách bạch hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực, qua đó góp phần nâng cao nhận thức của người dân và xã hội về hai lĩnh vực này thì cần có quy định rõ việc chứng thực chỉ chứng thực về hình thức của hợp đồng, giao dịch (khác với công chứng là chứng nhận về nội dung của hợp đồng, giao dịch). Tuy nhiên, do hiện tại việc chứng thực hợp đồng, giao dịch tại UBND cấp huyện, cấp xã tiếp tục được thực hiện theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP nên người thực hiện chứng thực phải chịu trách nhiệm về nội dung của hợp đồng, giao dịch và văn bản được chứng thực có giá trị ngang với văn bản được công chứng. Điều này chưa phản ánh đúng bản chất của hoạt động chứng thực (chỉ mang tính hình thức).

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên chủ yếu là do có nhiều văn bản cùng điều chỉnh lĩnh vực chứng thực (Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, Nghị định số 04/2012/NĐ-CP và Điều 4 của Nghị định số 06/2012/NĐ-CP) nên dẫn đến khó áp dụng đối với người dân và cơ quan thực hiện chứng thực, thậm chí có quy định chồng chéo với nhau. Bên cạnh đó, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật công chứng (sửa đổi), theo đó, Điều 77 Luật công chứng (sửa đổi) quy định: “Công chứng viên được chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản và việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng thực”.

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế (trong khi Luật chứng thực chưa được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2014 – 2015), đồng thời để cụ thể hóa quy định của Luật công chứng (sửa đổi) liên quan đến chứng thực như đã nêu trên thì việc ban hành Nghị định về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch nhằm điều chỉnh một cách tập trung, thống nhất các vấn đề về chứng thực (thay thế các Nghị định nêu trên) là hết sức cần thiết. Nghị định này sẽ tạo cơ sở pháp lý và tiền đề quan trọng để đưa hoạt động chứng thực vào nền nếp, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu triển khai, thi hành Luật công chứng (sửa đổi) liên quan đến thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký của các tổ chức hành nghề công chứng.

2. Quan điểm chỉ đạo, xây dựng Nghị định

2.1. Bảo đảm cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực; bảo đảm quyền, lợi ích của công dân.

2.2. Bảo đảm kế thừa những quy định còn phù hợp của pháp luật hiện hành về chứng thực; sự đồng bộ, thống nhất với pháp luật về công chứng góp phần xây dựng nền hành chính công khai, minh bạch và tăng cường quản lý nhà nước về công tác chứng thực.

3.Bố cục

Nghị định số 23/2015/NĐ-CP gồm 5 chương, 50 điều

Chương I. “Những quy định chung”, gồm 15 điều (từ Điều 1 đến Điều 15). Chương này quy định về: phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; giá trị pháp lý của bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao được chứng thực từ bản chính, chữ ký được chứng thực và hợp đồng, giao dịch được chứng thực; thẩm quyền và trách nhiệm cấp bản sao từ sổ gốc; thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao; thời hạn thực hiện yêu cầu chứng thực; quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu chứng thực; nghĩa vụ, quyền của người thực hiện chứng thực; địa điểm chứng thực; tiếng nói và chữ viết dùng trong chứng thực; lời chứng; sổ chứng thực và số chứng thực; chế độ lưu trữ; lệ phí chứng thực, phí chứng thực và chi phí khác.

Chương II. “Cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký”, gồm 18 Điều (từ Điều 16 đến Điều 33), chia làm 04 mục:

Mục 1: Cấp bản sao từ sổ gốc, gồm 2 điều (Điều 16, Điều 17), quy định về: người có quyền yêu cầu cấp bản sao từ sổ gốc, thủ tục cấp bản sao từ sổ gốc.

Mục 2: Chứng thực bản sao từ bản chính, gồm 5 điều (từ Điều 18 đến Điều 22), quy định về: giấy tờ, văn bản làm cơ sở để chứng thực bản sao từ bản chính; trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực bản sao và người thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính; thủ tục chứng thực bản sao từ bản chính; gia hạn thời gian chứng thực bản sao từ bản chính; bản chính giấy tờ không được dùng làm cơ sở để chứng thực bản sao.

Mục 3: Chứng thực chữ ký, gồm 4 điều (từ Điều 23 đến Điều 26), quy định về: trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực chữ ký và người thực hiện chứng thực chữ ký; thủ tục chứng thực chữ ký; trường hợp không được chứng thực chữ ký; áp dụng trong trường hợp đặc biệt.

Mục 4: Người dịch, chứng thực chữ ký người dịch, gồm 7 điều (từ Điều 27 đến Điều 33), quy định về: tiêu chuẩn, điều kiện của người dịch; cộng tác viên dịch thuật; đăng ký chữ ký mẫu; trách nhiệm của người dịch và người thực hiện chứng thực chữ ký người dịch; thủ tục chứng thực chữ ký người dịch; giấy tờ, văn bản không được dịch để chứng thực chữ ký người dịch; thời hạn chứng thực chữ ký người dịch.

Chương III. “Chứng thực hợp đồng, giao dịch”, gồm 7 Điều (từ Điều 34 đến Điều 40). Chương này quy định về: phạm vi chứng thực hợp đồng, giao dịch; trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực hợp đồng, giao dịch và người thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch; thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch; chứng thực việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch; sửa lỗi sai sót trong hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực; cấp bản sao có chứng thực từ bản chính hợp đồng, giao dịch được chứng thực.

Chương IV. “Quản lý nhà nước về chứng thực”, gồm 5 Điều (từ Điều 41 đến Điều 45). Chương này quy định về: trách nhiệm của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, UBND các cấp trong quản lý nhà nước về chứng thực; xử lý vi phạm; khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Chương V. “Điều khoản thi hành” gồm 4 Điều (Điều 46 đến Điều 49). Chương này quy định về: nhiệm vụ của các tổ chức hành nghề công chứng; điều khoản chuyển tiếp; hiệu lực thi hành và tổ chức thực hiện.

II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ ĐỊNH

1. Những quy định chung

a) Giải thích từ ngữ (Điều 2)

Nghị định số 23/2015/NĐ-CP kế thừa một số quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về giải thích từ ngữ như giải thích về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và sổ gốc. Sửa đổi, bổ sung một số giải thích mới về chứng thực hợp đồng, giao dịch, bản chính, bản sao, văn bản chứng thực, người thực hiện chứng thực. Cụ thể như:

– “Cấp bản sao từ sổ gốc” là việc cơ quan, tổ chức đang quản lý sổ gốc, căn cứ vào sổ gốc để cấp bản sao. Bản sao từ sổ gốc có nội dung đầy đủ, chính xác như nội dung ghi trong sổ gốc.

– “Chứng thực bản sao từ bản chính” là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính.

– “Chứng thực chữ ký” là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người yêu cầu chứng thực.

– “Chứng thực hợp đồng, giao dịch” là việc cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.

Giải thích từ ngữ về chứng thực hợp đồng, giao dịch đã thể hiện rõ phạm vi chứng thực hợp đồng, giao dịch theo quy định của Nghị định này.

– “Bản chính” là những giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp lần đầu, cấp lại, cấp khi đăng ký lại; những giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập có xác nhận và đóng dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Quy định này vừa kế thừa quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, đưa hướng dẫn về bản chính tại Thông tư số 03/2008/TT-BTP. Bản chính theo quy định tại Nghị định này không chỉ là những giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp lần đầu mà cả là những giấy tờ cấp lại, cấp khi đăng ký lại. Bên cạnh đó, khái niệm về bản chính ở đây cũng mở rộng hơn, vì nó không chỉ là những giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền cấp mà còn là những giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập nhưng có xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

– “Bản sao” là bản chụp từ bản chính hoặc bản đánh máy có nội dung đầy đủ, chính xác như nội dung ghi trong sổ gốc. So với Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, Quy định này hẹp hơn (bỏ giấy tờ viết tay, vì thực tiễn cho thấy, đã là giấy tờ viết tay thì không thể thể hiện đầy đủ nội dung như bản chính đã được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp được).

– “Sổ gốc” là sổ do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền lập ra khi thực hiện việc cấp bản chính theo quy định của pháp luật, trong đó có nội dung đầy đủ, chính xác như bản chính mà cơ quan, tổ chức đó đã cấp.

– “Văn bản chứng thực” là giấy tờ, văn bản, hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực theo quy định của Nghị định này.

– “Người thực hiện chứng thực” là Trưởng phòng, Phó trưởng Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; công chứng viên của Phòng công chứng, Văn phòng công chứng; viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự của Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự và Cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài. Đây là những quy định mới phù hợp với quy định tại Điều 77 của Luật công chứng, (từ ngày 01/01/2015 công chứng viên của các tổ chức hành nghề công chứng được thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản theo quy định về chứng thực).

b) Về giá trị pháp lý của bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao được chứng thực từ bản chính, chữ ký được chứng thực và hợp đồng, giao dịch được chứng thực

Theo quy định tai khoản 1 Điều 3, bản sao được cấp từ sổ gốc có giá trị sử dụng thay cho bản chính trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tại khoản 2 Điều 3 quy định như sau: “Bản sao được chứng thực từ bản chính theo quy định tại Nghị định này có giá trị pháp lý sử dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp luật quy định khác”. Theo quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thì “Bản sao được chứng thực từ bản chính theo quy định tại Nghị định này có giá trị pháp lý sử dụng thay cho bản chính trong các giao dịch”. Tuy nhiên, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP không quy định thời hạn sử dụng bản sao. Trên thực tế, đối với những bản chính giấy tờ, văn bản ghi rõ thời hạn sử dụng (như giấy chứng nhận sức khỏe, giấy chứng minh nhân dân, Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân…) thì thời hạn sử dụng bản sao chứng thực cũng như bản chính. Đối với các bản chính giấy tờ văn bản không ghi về thời hạn sử dụng và trên thực tế có những giấy tờ, văn bản đã có sự thay đổi về nội dung do phụ thuộc vào các sự kiện pháp lý khác (như Giấy khai sinh khi đã thay đổi, cải chính nội dung, Giấy chứng nhận kết hôn khi đã ly hôn, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi đã tách thửa hoặc bán một phần…) thì bản sao chứng thực từ bản chính trước khi có sự thay đổi (bản chính cũ) không còn giá trị sử dụng thay cho bản chính đó nữa. Vì về bản chất, giá trị của bản sao, thời hạn sử dụng bản sao phụ thuộc vào bản chính.

– Chữ ký chứng thực được thực hiện theo quy định tại Nghị định này có giá trị chứng minh người yêu cầu chứng thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản (khoản 3). Như vậy, xét về mặt bản chất, chứng thực chữ ký chỉ nhằm xác nhận, xác thực là người yêu cầu chứng thực chính là người đã ký chữ ký đó, tạo căn cứ để xác định trách nhiệm của người đó đối với nội dung giấy tờ, văn bản đã ký.

– Về giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được chứng thực: Để bảo đảm đúng tính chất của hoạt động chứng thực (chỉ chứng thực về hình thức của hợp đồng, giao dịch)[1], khoản 4 Điều 3 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP quy định về giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch như sau: “Hợp đồng, giao dịch được chứng thực theo quy định của Nghị định này có giá trị chứng cứ chứng minh về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch”. Như vậy, xét về giá trị pháp lý thì cơ quan chứng thực chỉ cần chứng thực về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp đồng, giao dịch, năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; còn các bên phải chịu trách nhiệm về nội dung của hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực. Quy định này đã phân biệt rõ giữa giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được chứng thực với hợp đồng, giao dịch được công chứng. Vì, theo quy định của Luật công chứng thì hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Trên cơ sở quy định khác nhau về giá trị pháp lý này, sẽ tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tự lựa chọn công chứng hay chứng thực để bảo đảm an toàn pháp lý cho hợp đồng, giao dịch của mình.

c) Thẩm quyền và trách nhiệm cấp bản sao từ sổ gốc

Theo Điều 4, Nghị định thì cơ quan, tổ chức đang quản lý sổ gốc có thẩm quyền và trách nhiệm cấp bản sao từ sổ gốc theo quy định tại Nghị định này, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc cấp bản sao từ sổ gốc được thực hiện đồng thời với việc cấp bản chính hoặc sau thời điểm cấp bản chính.

d) Thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực

Đây là quy định có nhiều điểm mới so với Nghị định số 75/2000/NĐ-CP và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, cụ thể như sau:

– Đối với thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính:

Nghị định số 79/2007/NĐ-CP và Nghị định số 04/2012/NĐ-CP phân định thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính giữa UBND cấp xã và Phòng Tư pháp là dựa trên loại giấy tờ, văn bản (tiếng Việt, nước ngoài hay song ngữ). Quy định này đã gây khó khăn cho cơ quan thực hiện chứng thực, vì trên thực tế có nhiều loại giấy tờ, văn bản đan xen giữa các ngôn ngữ khác nhau. Để khắc phục bất cập này, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP phân định thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính giữa UBND cấp xã và Phòng Tư pháp là dựa trên cơ quan cấp giấy tờ, văn bản. Theo đó, Phòng Tư pháp, Cơ quan đại diện, công chứng viên có thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam liên kết với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng nhận (điểm a khoản 1, khoản 3, khoản 4 Điều 5). UBND cấp xã có thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp hoặc chứng nhận (điểm a khoản 3 Điều 5). Như vậy, theo quy định này thì không phụ thuộc giấy tờ, văn bản được lập bằng ngôn ngữ gì, mà người thực hiện chứng thực chỉ cần căn cứ vào cơ quan cấp giấy tờ, văn bản đó.

– Đối với thẩm quyền chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản:

Nghị định số 79/2007/NĐ-CP và Nghị định số 04/2012/NĐ-CP đã phân định thẩm quyền chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản dựa trên loại giấy tờ, văn bản (tiếng Việt, nước ngoài, song ngữ), việc phân định thẩm quyền này không những gây khó khăn cho người yêu cầu chứng thực, người thực hiện chứng thực mà còn dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan thực hiện chứng thực. Để khắc phục bất cập này và tạo thuận lợi cho người dân, Nghị định này không phân biệt thẩm quyền chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản giữa Phòng Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp xã. Theo đó, Phòng Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã, Cơ quan đại diện, công chứng viên đều có thẩm quyền chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản như nhau (tiếng Việt, tiếng nước ngoài, song ngữ…).

– Đối với thẩm quyền chứng thực chữ ký người dịch: Theo Điểm c Khoản 1 Điều 5, Phòng Tư pháp và Cơ quan đại diện có thẩm quyền chứng thực chữ ký của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài.

– Đối với thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch: Nghị định quy định Phòng Tư pháp và UBND cấp xã cùng có thẩm quyền chứng thực: hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là động sản, chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản (khoản 1, khoản 2 Điều 5).

Bên cạnh đó, căn cứ vào Bộ Luật dân sự, Luật đất đai, Luật nhà ở thì UBND cấp xã còn có thẩm quyền sau: Chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai, chứng thực di chúc, chứng thực văn bản từ chối nhận di sản theo quy định của Bộ luật dân sự, chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản mà di sản là bất động sản và chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở theo quy định của Luật nhà ở.

Quy định trên một mặt bảo đảm thuận lợi cho người dân khi có yêu cầu chứng thực, mặt khác phân định rõ thẩm quyền chứng thực giữa Phòng Tư pháp, UBND cấp xã trong thực hiện chứng thực để tránh ùn tắc hoặc đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan thực hiện chứng thực.

– Về thẩm quyền chứng thực của công chứng viên: Cụ thể hóa Điều 77 Luật công chứng, khoản 4 Điều 5 Nghị định quy định cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm của công chứng viên trong việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký tương đương thẩm quyền và trách nhiệm của Phòng Tư pháp; trừ việc công chứng bản dịch phải được thực hiện theo quy định của Luật công chứng (sửa đổi).

Việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là động sản, chứng thực di chúc theo quy định nêu trên không phụ thuộc vào nơi cư trú của người yêu cầu chứng thực.

Việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền của người sử dụng đất được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất. Việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến nhà ở được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có nhà.

đ) Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao (Điều 6)

Theo khoản 2 Điều 6 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP người dân có quyền nộp bản sao không có chứng thực và xuất trình bản chính để đối chiếu, tuy nhiên, trên thực tế, việc công chức, viên chức, người lao động khi tiếp nhận hồ sơ thực hiện thủ tục hành chính không tự kiểm tra, đối chiếu bản sao với bản chính theo quy định mà vẫn yêu cầu người dân phải nộp bản sao có chứng thực còn rất phổ biến, đặc biệt là trong các lĩnh vực: tuyển sinh, tuyển dụng, bổ nhiệm, giải quyết chính sách, đăng ký hộ tịch, hộ khẩu, giao dịch đất đai, nhà ở… Qua tổng kết công tác chứng thực từ năm 2007 đến nay cho thấy, mỗi năm Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trên toàn quốc phải thực hiện chứng thực hàng trăm triệu bản sao. Thực trạng này không chỉ gây phiền hà cho người dân, quá tải cho cơ quan thực hiện chứng thực mà còn gây lãng phí cho xã hội. Vì vậy, Điều 6 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP đã quy định cụ thể hơn trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khi tiếp nhận bản sao, cụ thể: Trường hợp pháp luật quy định nộp bản sao thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận bản sao, không được yêu cầu bản sao có chứng thực, nhưng có quyền yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu. Người đối chiếu có trách nhiệm xác nhận tính chính xác của bản sao so với bản chính. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao có chứng thực thì không được yêu cầu xuất trình bản chính, trừ trường hợp có căn cứ về việc bản sao giả mạo, bất hợp pháp thì yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu hoặc tiến hành xác minh, nếu thấy cần thiết.

e) Thời hạn thực hiện yêu cầu chứng thực (Điều 7)

Thời hạn thực hiện yêu cầu chứng thực phải được bảo đảm ngay trong ngày cơ quan, tổ chức tiếp nhận yêu cầu hoặc trong ngày làm việc tiếp theo, nếu tiếp nhận yêu cầu sau 15 giờ; trừ trường hợp quy định tại các Điều 21, 33 và Điều 37 của Nghị định này.

g) Quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu chứng thực (Điều 8)

Người yêu cầu chứng thực có quyền yêu cầu chứng thực tại bất kỳ cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nào thuận tiện nhất; trừ trường hợp Nghị định này quy định việc chứng thực phải được thực hiện tại cơ quan có thẩm quyền theo địa hạt. Trong trường hợp bị từ chối chứng thực thì có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức từ chối giải thích rõ lý do bằng văn bản hoặc khiếu nại theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, để nâng cao trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực, Nghị định quy định người yêu cầu chứng thực phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung, tính hợp lệ, hợp pháp của giấy tờ, văn bản mà mình yêu cầu chứng thực hoặc xuất trình.

h) Nghĩa vụ, quyền của người thực hiện chứng thực (Điều 9)

Theo Điều 9 Nghị định thì người thực hiện chứng thực có các quyền và nghĩa vụ sau:

– Bảo đảm trung thực, chính xác, khách quan khi thực hiện chứng thực.

– Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chứng thực của mình.

– Từ chối chứng thực trong các trường hợp sau:

+ Bản chính giấy tờ, văn bản không được dùng làm cơ sở để chứng thực bản sao;

+ Trường hợp không được chứng thực chữ ký;

+ Giấy tờ, văn bản không được dịch để chứng thực chữ ký người dịch.

– Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin cần thiết để xác minh tính hợp pháp của giấy tờ, văn bản yêu cầu chứng thực.

– Lập biên bản tạm giữ, chuyển cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với giấy tờ, văn bản yêu cầu chứng thực được cấp sai thẩm quyền, giả mạo hoặc có nội dung có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội; tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xuyên tạc lịch sử của dân tộc Việt Nam; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức; vi phạm bí mật đời tư cá nhân.

– Hướng dẫn người yêu cầu chứng thực bổ sung hồ sơ, nếu hồ sơ chứng thực chưa đầy đủ hoặc hướng dẫn nộp hồ sơ đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng thực, nếu nộp hồ sơ không đúng cơ quan có thẩm quyền.

Trong trường hợp từ chối chứng thực, người thực hiện chứng thực phải giải thích rõ lý do bằng văn bản cho người yêu cầu chứng thực.

i) Địa điểm chứng thực (Điều 10)

Nghị định số 79/2007/NĐ-CP chỉ quy định về địa điểm chứng thực bản sao từ bản chính (tại trụ sở cơ quan thực hiện chứng thực) mà không có quy định về địa điểm chứng thực chữ ký, do đó, khi người dân có yêu cầu chứng thực chữ ký ngoài trụ sở cơ quan thực hiện chứng thực thì cơ quan thực hiện chứng thực không có cơ sở pháp lý để thực. Vì vậy, tại Điều 10 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP đã có quy định mở hơn đối với địa điểm chứng thực. Theo đó, việc chứng thực được thực hiện tại trụ sở cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng thực; trừ trường hợp chứng thực di chúc, chứng thực hợp đồng, giao dịch, chứng thực chữ ký mà người yêu cầu chứng thực thuộc diện già yếu, không thể đi lại được, đang bị tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác.

Khi thực hiện chứng thực phải ghi rõ địa điểm chứng thực; trường hợp chứng thực ngoài trụ sở phải ghi rõ thời gian (giờ, phút) chứng thực. Đồng thời, Nghị định cũng quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực phải bố trí người tiếp nhận yêu cầu chứng thực các ngày làm việc trong tuần; phải niêm yết công khai lịch làm việc, thẩm quyền, thủ tục, thời gian giải quyết và lệ phí, chi phí chứng thực tại trụ sở của cơ quan, tổ chức.

k) Tiếng nói và chữ viết dùng trong chứng thực hợp đồng, giao dịch (Điều 11)

Tiếng nói và chữ viết dùng trong chứng thực hợp đồng, giao dịch là tiếng Việt. Trường hợp người yêu cầu chứng thực không thông thạo tiếng Việt thì phải có người phiên dịch.

l) Lời chứng (Điều 12)

Lời chứng là nội dung bắt buộc của Văn bản chứng thực. Để bảo đảm thuận tiện cho người thực hiện chứng thực, Điều 12 Nghị định đã quy định cụ thể các mẫu lời chứng. Theo đó, mẫu lời chứng ban hành kèm theo Nghị định này bao gồm:

– Lời chứng chứng thực bản sao từ bản chính;

– Lời chứng chứng thực chữ ký bao gồm: Lời chứng chứng thực chữ ký của một người trong một giấy tờ, văn bản; Lời chứng chứng thực chữ ký của nhiều người trong một giấy tờ, văn bản; Lời chứng chứng thực điểm chỉ; Lời chứng chứng thực trong trường hợp không ký, không điểm chỉ được;

– Lời chứng chứng thực chữ ký người dịch;

– Lời chứng chứng thực hợp đồng, giao dịch bao gồm: Lời chứng chứng thực hợp đồng, giao dịch; Lời chứng chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản; Lời chứng chứng thực văn bản khai nhận di sản; Lời chứng chứng thực di chúc; Lời chứng chứng thực văn bản từ chối nhận di sản.

m) Sổ chứng thực và số chứng thực (Điều 13)

– Sổ chứng thực: Sổ chứng thực dùng để theo dõi, quản lý các việc đã chứng thực tại cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực. Do Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25/8/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP chỉ hướng dẫn mẫu sổ chứng thực mà không hướng dẫn cách ghi sổ, mở sổ, khóa sổ, vì vậy, các địa phương thực hiện không thống nhất. Để khắc phục hạn chế này, Điều 13 Nghị định đã quy định cụ thể cách sử dụng sổ chứng thực. Theo đó, sổ chứng thực được viết liên tiếp theo thứ tự từng trang không được bỏ trống, phải đóng dấu giáp lai từ trang đầu đến trang cuối sổ và thực hiện theo từng năm. Khi hết năm phải thực hiện khóa sổ và thống kê tổng số việc chứng thực đã thực hiện trong năm; người ký chứng thực xác nhận, ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu.

– Số chứng thực: Số chứng thực là số thứ tự ghi trong sổ chứng thực, kèm theo quyển số, năm thực hiện chứng thực và ký hiệu loại việc chứng thực. Số thứ tự trong Sổ chứng thực phải ghi liên tục từ số 01 cho đến hết năm, trường hợp chưa hết năm mà sử dụng sang sổ khác thì phải lấy số thứ tự tiếp theo của sổ trước, không được ghi từ số 01. Đối với sổ được sử dụng tiếp cho năm sau thì trường hợp chứng thực đầu tiên của năm sau sẽ ghi bắt đầu từ số 01, không được lấy tiếp số thứ tự cuối cùng của năm trước.

Số ghi trong văn bản chứng thực là số tương ứng với số chứng thực đã ghi trong sổ chứng thực.

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực đã ứng dụng công nghệ thông tin vào việc chứng thực thì phải bảo đảm đầy đủ nội dung theo mẫu sổ chứng thực ban hành kèm theo Nghị định này. Định kỳ hàng tháng, cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực phải in và đóng thành sổ, đóng dấu giáp lai; đến hết ngày 31 tháng 12 hằng năm thì ghép chung thành 01 (một) sổ chứng thực theo từng loại việc chứng thực đã thực hiện trong 01 (một) năm. Việc lập sổ, ghi số chứng thực và khóa sổ được thực hiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

– Mẫu sổ chứng thực ban hành kèm theo Nghị định này bao gồm:

+ Sổ chứng thực bản sao từ bản chính (SCT/BS);

+ Sổ chứng thực chữ ký, chứng thực điểm chỉ (SCT/CK,ĐC);

+ Sổ chứng thực chữ ký người dịch (SCT/CKND);

+ Sổ chứng thực hợp đồng, giao dịch (SCT/HĐ,GD).

n) Chế độ lưu trữ (Điều 14)

Khoản 1 Điều 14 Nghị định quy định sổ chứng thực là tài liệu lưu trữ của Nhà nước, được bảo quản, lưu trữ vĩnh viễn tại trụ sở cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực. Bên cạnh đó, khoản 2, khoản 3 Điều này cũng quy định cụ thể thời hạn lưu trữ đối với từng loại việc chứng thực:

– Đối với việc chứng thực chữ ký và chứng thực chữ ký người dịch, cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực phải lưu một bản giấy tờ, văn bản đã chứng thực; thời hạn lưu trữ là 02 (hai) năm. Trong trường hợp chứng thực chữ ký của người tiến hành giám định trong văn bản kết luận giám định tư pháp thì không lưu trữ.

– Đối với việc chứng thực hợp đồng, giao dịch, cơ quan thực hiện chứng thực phải lưu một bản chính hợp đồng, giao dịch kèm theo hồ sơ; thời hạn lưu trữ là 20 (hai mươi) năm.

– Đối với việc chứng thực bản sao từ bản chính, theo quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thì thời hạn lưu trữ tối thiểu đối với loại việc này là 2 năm. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc lưu trữ này không có giá trị phục vụ cho việc tra cứu nhưng lại gây lãng phí cho cả người dân và cơ quan thực hiện chứng thực (vì hàng năm cơ quan thực hiện chứng thực phải chi rất nhiều kinh phí để thực hiện việc tiêu hủy). Chính vì vậy, khoản 2 Điều này đã quy định việc chứng thực bản sao từ bản chính thì cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực không phải lưu trữ.

Khoản 4 Điều 14 cũng quy định, cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực không được thu lệ phí, chi phí khác đối với văn bản chứng thực lưu trữ nêu trên; đồng thời có trách nhiệm bảo quản, bảo đảm an toàn đối với sổ chứng thực và văn bản chứng thực lưu trữ. Việc tiêu hủy văn bản chứng thực khi hết thời hạn lưu trữ được thực hiện theo quy định của pháp luật về lưu trữ (khoản 5).

m) Lệ phí chứng thực, chi phí khác (Điều 15)

Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 thì người yêu cầu chứng thực tại Phòng Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã, Cơ quan đại diện phải nộp lệ phí chứng thực theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, do trong thời gian qua chưa có quy định về mức thu chi phí khác cho hoạt động chứng thực (chi phí cho việc photo, in… tài liệu để phục vụ hoạt động thường xuyên của cơ quan chứng thực để đáp ứng yêu cầu sao, in tài liệu, đặc biệt là việc chứng thực bản sao), dẫn đến việc thu không thống nhất về mức thu giữa các địa phương, thậm chí một số địa phương còn đặt ra mức thu quá cao, gây bức xúc cho người dân và dư luận. Vì vậy, khoản 3 Điều này đã quy định: Trong trường hợp người yêu cầu chứng thực đề nghị cơ quan thực hiện chứng thực in, chụp, đánh máy giấy tờ, văn bản thì phải nộp chi phí để thực hiện việc đó. Ở trong nước, mức trần chi phí do Ủy ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định trên cơ sở thực tế của địa phương; ở nước ngoài, mức chi phí do Trưởng Cơ quan đại diện quy định trên cơ sở thực tế của địa bàn.

2. Cấp bản sao từ sổ gốc

a) Cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu cấp bản sao từ sổ gốc (Điều 16)

Những cá nhân, tổ chức sau đây có quyền yêu cầu cấp bản sao từ sổ gốc:

Cá nhân, tổ chức được cấp bản chính, Người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo uỷ quyền của cá nhân, tổ chức được cấp bản chính hoặc cha, mẹ, con; vợ, chồng; anh, chị, em ruột; người thừa kế khác của người được cấp bản chính trong trường hợp người đó đã chết.

b) Thủ tục cấp bản sao từ sổ gốc (Điều 17)

– Người yêu cầu cấp bản sao từ sổ gốc phải xuất trình bản chính hoặc bản sao có chứng thực Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu còn giá trị sử dụng để người tiếp nhận hồ sơ kiểm tra.

Trong trường hợp người yêu cầu cấp bản sao từ sổ gốc là cha, mẹ, con; vợ, chồng; anh, chị, em ruột;người thừa kế khác của người được cấp bản chính thì còn phải xuất trình giấy tờ chứng minh quan hệ với người được cấp bản chính, trừ trường hợp cơ quan, tổ chức cấp bản sao từ sổ gốc đã biết rõ về họ.

– Cơ quan, tổ chức căn cứ vào sổ gốc để cấp bản sao cho người yêu cầu; nội dung bản sao phải ghi theo đúng nội dung đã ghi trong sổ gốc. Trường hợp không còn lưu trữ được sổ gốc hoặc trong sổ gốc không có thông tin về nội dung yêu cầu cấp bản sao thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu.

– Trường hợp người yêu cầu cấp bản sao từ sổ gốc gửi yêu cầu qua hệ thống bưu chính thì phải gửi kèm theo bản sao có chứng thực giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này, 01 phong bì dán tem ghi rõ họ tên, địa chỉ người nhận cho cơ quan, tổ chức cấp bản sao.

Thời hạn cấp bản sao từ sổ gốc phải được bảo đảm ngay trong ngày cơ quan, tổ chức tiếp nhận yêu cầu hoặc trong ngày làm việc tiếp theo, nếu tiếp nhận yêu cầu sau 15 giờ. Trong trường hợp yêu cầu cấp bản sao từ sổ gốc được gửi qua hệ thống bưu chính thì thời hạn được thực hiện ngay sau khi cơ quan, tổ chức nhận đủ hồ sơ hợp lệ theo dấu bưu điện đến.

3. Chứng thực bản sao từ bản chính

a) Giấy tờ, văn bản làm cơ sở để đối chiếu khi chứng thực bản sao từ bản chính (Điều 18)

Theo Điều 18 của Nghị định thì giấy tờ, văn bản làm cơ sở để chứng thực bản sao từ bản chính là: Bản chính giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp; bản chính giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập có xác nhận và đóng dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

b) Trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực bản sao và người thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính (Điều 19)

Để bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch của các quy định; nâng cao trách nhiệm của cá nhân người yêu cầu chứng thực, Nghị định này đã bổ sung quy định mới về trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực bản sao và người thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính (Điều 19). Theo quy định này, người yêu cầu chứng thực bản sao phải chịu trách nhiệm về nội dung, tính hợp lệ, hợp pháp của bản chính giấy tờ, văn bản dùng làm cơ sở để chứng thực bản sao; không được yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản không được dùng làm cơ sở để chứng thực bản sao. Người thực hiện chứng thực chỉ chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao là đúng với bản chính.

c) Thủ tục chứng thực bản sao từ bản chính (Điều 20)

So với Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, Nghị định này quy định cụ thể hơn các bước mà người yêu cầu chứng thực và người thực hiện chứng thực phải làm, cụ thể như sau:

Trước hết, người yêu cầu chứng thực phải xuất trình bản chính giấy tờ, văn bản làm cơ sở để chứng thực bản sao và bản sao cần chứng thực. Trong trường hợp bản chính giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc xác nhận thì phải được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật trước khi yêu cầu chứng thực bản sao; trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại. Trường hợp người yêu cầu chứng thực chỉ xuất trình bản chính thì cơ quan, tổ chức tiến hành sao chụp từ bản chính để thực hiện chứng thực, trừ trường hợp cơ quan, tổ chức không có phương tiện để sao chụp.

Người thực hiện chứng thực kiểm tra bản chính, đối chiếu với bản sao, nếu nội dung bản sao đúng với bản chính thì thực hiện chứng thực như sau:

– Ghi đầy đủ lời chứng chứng thực bản sao từ bản chính theo mẫu quy định;

– Ký, ghi rõ họ tên, đóng dấu của cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực và ghi vào sổ chứng thực.

Đối với bản sao có từ hai trang trở lên thì ghi lời chứng vào trang cuối cùng; nếu bản sao có từ hai tờ trở lên thì phải đóng dấu giáp lai.

Mỗi bản sao được chứng thực từ một bản chính giấy tờ, văn bản hoặc nhiều bản sao được chứng thực từ một bản chính giấy tờ, văn bản trong cùng một thời điểm được ghi một số chứng thực.

d) Gia hạn thời gian chứng thực bản sao từ bản chính (Điều 21)

Theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thì: “Việc tiếp nhận yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính trong thời gian làm việc buổi sáng hoặc buổi chiều thì phải được thực hiện chứng thực ngay trong buổi làm việc đó; trường hợp yêu cầu chứng thực với số lượng lớn thì việc chứng thực có thể được hẹn lại để chứng thực sau nhưng không quá 2 ngày làm việc kể từ khi tiếp nhận”.

Tuy nhiên, trên thực tế để giải quyết yêu cầu chứng thực ngay trong buổi làm việc là rất khó (rất ít địa phương thực hiện được theo quy định này). Bên cạnh đó, do Nghị định số 79/2007/NĐ-CP không có quy định như thế nào là “số lượng lớn” nên đã gây khó khăn cho người thực hiện chứng thực.

Vì vậy, Điều 7 Nghị định đã quy định thời hạn thực hiện yêu cầu chứng thực phải được bảo đảm ngay trong ngày cơ quan, tổ chức tiếp nhận yêu cầu hoặc trong ngày làm việc tiếp theo, nếu tiếp nhận yêu cầu sau 15 giờ. Tuy nhiên, để tạo điều kiện linh hoạt cho cơ quan thực hiện chứng thực, Điều 21 Nghị định cho phép cơ quan thực hiện chứng thực thỏa thuận với người yêu cầu chứng thực để kéo dài hơn thời hạn thực hiện chứng thực nếu trường hợp cùng một lúc yêu cầu chứng thực nhiều loại giấy tờ, văn bản; bản chính có nhiều trang; yêu cầu số lượng nhiều bản sao; nội dung giấy tờ phức tạp khó kiểm tra, đối chiếu nên cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực không thể đáp ứng được thời hạn quy định tại Điều 7 thì thời hạn chứng thực bản sao từ bản chính được kéo dài thêm không quá hai ngày làm việc hoặc có thể dài hơn theo thỏa thuận bằng văn bản với người yêu cầu chứng thực.

đ) Những loại giấy tờ, văn bản không được chứng thực bản sao từ bản chính

Theo quy định tại Điều 22 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP thì bản chính những loại giấy tờ, văn bản sau đây không được dùng làm cơ sở để chứng thực bản sao:

– Bản chính bị tẩy xóa, sửa chữa, thêm, bớt nội dung không hợp lệ.

– Bản chính bị hư hỏng, cũ nát, không xác định được nội dung.

– Bản chính đóng dấu mật của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc không đóng dấu mật nhưng ghi rõ không được sao chụp.

– Bản chính có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội; tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xuyên tạc lịch sử của dân tộc Việt Nam; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức; vi phạm bí mật đời tư cá nhân.

– Bản chính do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc xác nhận chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại khoản 1 Điều 20 của Nghị định này.

– Bản chính đã hết thời hạn sử dụng, nếu người yêu cầu chứng thực không chứng minh được mục đích của việc yêu cầu chứng thực bản sao.

– Giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập nhưng không có xác nhận và đóng dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

So với quy định tại Điều 16 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký thì Điều 22 đã quy định cụ thể hơn các loại giấy tờ, văn bản không được chứng thực. Bên cạnh đó, Điều 22 Nghị định đã bỏ quy định tại khoản 1 Điều 16 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP (bản chính được cấp sai thẩm quyền hoặc giả mạo). Việc bỏ quy định này nhằm giảm nhẹ trách nhiệm cho người thực hiện chứng thực, vì việc phát hiện giấy tờ cấp sai thẩm quyền hoặc giả mạo là rất khó khăn, trong khi đó, người yêu cầu chứng thực mới là người phải chịu trách nhiệm về nội dung của bản chính giấy tờ, văn bản yêu cầu chứng thực. Tuy nhiên, trong trường hợp người thực hiện chứng thực phát hiện bản chính giấy tờ, văn bản là giả mạo hoặc cấp sai thẩm quyền thì vẫn có quyền từ chối chứng thực và lập biên bản tạm giữ theo quy định tại khoản 5 Điều 9 của Nghị định này.

4. Chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản

a) Trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực chữ ký và người thực hiện chứng thực chữ ký (Điều 23)

Cũng giống như việc chứng thực bản sao từ bản chính, người yêu cầu chứng thực chữ ký phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của giấy tờ, văn bản mà mình ký vào để yêu cầu chứng thực chữ ký. Không được yêu cầu chứng thực chữ ký đối với giấy tờ, văn bản có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xuyên tạc lịch sử của dân tộc Việt Nam, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức, vi phạm bí mật đời tư cá nhân.

Người thực hiện chứng thực chịu trách nhiệm về tính xác thực về chữ ký của người yêu cầu chứng thực trong giấy tờ, văn bản đó là chữ ký của người yêu cầu chứng thực, không chịu trách nhiệm về nội dung của giấy tờ, văn bản.

b) Thủ tục chứng thực chữ ký (Điều 24)

– Để tạo thuận lợi cho người yêu cầu chứng thực và người thực hiện chứng thực, Điều 24 Nghị định đã quy định cụ thể hồ sơ yêu cầu chứng thực và trình tự, thủ tục thực hiện chứng thực chữ ký. Theo đó, người yêu cầu chứng thực chữ ký của mình phải xuất trình các giấy tờ sau đây:

+ Bản chính hoặc bản sao có chứng thực Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu còn giá trị sử dụng (Nghị định này không cho phép người yêu cầu chứng thực xuất trình các giấy tờ tùy thân khác có giá trị thay thế như quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP);

+ Giấy tờ, văn bản mà mình sẽ ký vào đó.

Người thực hiện chứng thực phải kiểm tra giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực xuất trình. Nếu người yêu cầu chứng thực chữ ký không phải là người trong Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc giấy tờ đó là giả mạo, không còn giá trị sử dụng thì có quyền từ chối chứng thực. Bên cạnh đó, người thực hiện chứng thực chữ ký còn phải kiểm tra nội dung của giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực sẽ ký vào, nếu nội dung của giấy tờ không trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xuyên tạc lịch sử của dân tộc Việt Nam, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức, vi phạm bí mật đời tư cá nhân và người yêu cầu chứng thực hoàn toàn minh mẫn, nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì thực hiện chứng thực.

Người yêu cầu chứng thực phải ký trước mặt người thực hiện chứng thực.

Việc ghi lời chứng, ký và đóng dấu vào văn bản chứng thực được thực hiện tương tự như thủ tục chứng thực bản sao từ bản chính.

– Thủ tục chứng thực chữ ký nêu trên cũng được áp dụng đối với các trường hợp sau đây:

+ Chứng thực chữ ký của nhiều người trong cùng một giấy tờ, văn bản;

+ Chứng thực chữ ký của người khai lý lịch cá nhân;

+ Chứng thực chữ ký trong giấy tờ do cá nhân tự lập theo quy định của pháp luật;

+ Chứng thực chữ ký trong Giấy ủy quyền đối với trường hợp ủy quyền không có thù lao, không có nghĩa vụ bồi thường của bên được uỷ quyền và không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản.

c) Thủ tục chứng thực chữ ký tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông

Thực hiện Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã trên toàn quốc đã tổ chức triển khai thực hiện thủ tục chứng thực tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông (người yêu cầu chứng thực nộp hồ sơ và nhận kết quả tại bộ phận “một cửa”). Việc triển khai hoạt động chứng thực theo cơ chế “một cửa” trên thực tế đã tạo thuận lợi hơn cho người dân, tiết kiệm chi phí, đi lại, giảm bớt thời gian giải quyết yêu cầu chứng thực của tổ chức, cá nhân, nâng cao trách nhiệm của cơ quan chứng thực.

Tuy nhiên, cơ chế này cũng đã và đang phát sinh một số tồn tại, hạn chế, nhất là đối với địa phương chưa bố trí được cán bộ Phòng Tư pháp tại bộ phận “một cửa” hoặc chưa tổ chức được bộ phận “một cửa” theo hướng độc lập, chuyên trách. Việc phải bố trí cán bộ từ các phòng nghiệp vụ khác tại bộ phận “một cửa” đã dẫn đến những khó khăn, phức tạp cho người dân có yêu cầu chứng thực. Bởi sau khi nộp hồ sơ tại bộ phận “một cửa”, người dân lại phải đến Phòng Tư pháp để trực tiếp ký trước mặt người có thẩm quyền chứng thực, rồi sau đó mới đến lấy kết quả. Quy trình này vừa gây phiền hà, lãng phí thời gian cho người dân, vừa làm giảm vai trò của mô hình “một cửa”. Để khắc phục hạn chế này, khoản 3 Điều 24 Nghị định đã quy định thủ tục chứng thực chữ ký tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Theo đó, về cơ bản, thủ tục chứng thực chữ ký cũng giống như trường hợp chứng thực chữ ký thông thường chỉ có một quy định khác là người tiếp nhận hồ sơ tại bộ phận một cửa sẽ phải có một số trách nhiệm, cụ thể như sau:

Công chức tiếp nhận hồ sơ tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả kiểm tra giấy tờ yêu cầu chứng thực, nếu thấy đủ giấy tờ theo quy định, giấy tờ mà người yêu cầu chứng thực sẽ ký vào không có nội dung thuộc trường hợp cấm và tại thời điểm chứng thực nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì đề nghị người yêu cầu chứng thực ký trước vào giấy tờ cần chứng thực và chuyển giấy tờ cho người có thẩm quyền ký chứng thực.

Việc ghi lời chứng, ký và đóng dấu vào văn bản chứng thực được thực hiện như trường hợp chứng thực chữ ký thông thường.

d) Những trường hợp không được chứng thực chữ ký

Nghị định số 79/2007/NĐ-CP chỉ quy định một số trường hợp không được chứng thực bản sao từ bản chính mà không có quy định về các trường hợp không được chứng thực chữ ký. Vì vậy, trong thực tiễn thi hành, người thực hiện chứng thực không có cơ sở pháp lý để từ chối chứng thực nếu phát hiện giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực sẽ ký vào có nội dung trái pháp luật hoặc giấy tờ, văn bản được dịch là giả mạo, cũ nát… Do đó, Nghị định này ngoài việc quy định cụ thể hơn các trường hợp không được chứng thực bản sao từ bản chính, đã bổ sung quy định về những trường hợp không được chứng thực chữ ký. Do đó, cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực không được thực hiện chứng thực chữ ký trong các trường hợp sau đây:

– Tại thời điểm chứng thực, người yêu cầu chứng thực chữ ký không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

– Người yêu cầu chứng thực chữ ký xuất trình Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu không còn giá trị sử dụng hoặc giả mạo.

– Giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực ký vào có nội dung nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xuyên tạc lịch sử của dân tộc Việt Nam, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức, vi phạm bí mật đời tư cá nhân.

– Giấy tờ, văn bản có nội dung là hợp đồng, giao dịch, trừ trường hợp chứng thực chữ ký trong Giấy ủy quyền đối với việc ủy quyền không có thù lao, không có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền và không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản.

đ) Áp dụng trong trường hợp đặc biệt

Trên thực tế có những trường hợp người yêu cầu chứng thực không biết ký hoặc không thể ký được do khuyết tật, do đó, để bảo đảm thuận lợi cho người dân, Điều 26 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP đã quy định về việc áp dụng trong trường hợp đặc biệt. Theo đó, trình tự, thủ tục chứng thực chữ ký nêu trên và trường hợp không được chứng thực chữ ký cũng được áp dụng trong trường hợp chứng thực điểm chỉ khi người yêu cầu chứng thực chữ ký không ký được; trường hợp người yêu cầu chứng thực không ký, không điểm chỉ được.

Tùy theo từng trường hợp, nội dung lời chứng được ghi theo mẫu quy định tại Nghị định này.

Theo quy định này, trong trường hợp người yêu cầu chứng thực chữ ký không ký, không điểm chỉ được thì không nhất thiết phải có người làm chứng, người thực hiện chứng thực sẽ đồng thời là người làm chứng trong trường hợp này thông qua lời chứng.

5. Người dịch và chứng thực chữ ký người dịch

a) Tiêu chuẩn, điều kiện của người dịch

Quy định tiêu chuẩn, điều kiện người dịch của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP khá thông thoáng và không gây khó khăn cho việc thực hiện chứng thực ở các tỉnh và thành phố lớn. Tuy nhiên, đối với một số ngôn ngữ nước ngoài không phổ biến hoặc ở những địa phương thuộc khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, việc tìm kiếm người dịch rất khó khăn. Trên thực tế, tuy có người thông thạo ngoại ngữ đó, nhưng không có bằng cấp theo quy định của pháp luật, nên việc chứng thực chữ ký của họ trên bản dịch không thực hiện được. Nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập nêu trên, khoản 1, khoản 2 Điều 27 Nghị định đã quy định khá cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện của ngươi dịch như sau:

– Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật.

– Có bằng cử nhân ngoại ngữ trở lên về thứ tiếng nước ngoài cần dịch hoặc có bằng tốt nghiệp đại học trở lên đối với thứ tiếng nước ngoài cần dịch.

Đối với ngôn ngữ không phổ biến mà người dịch không có bằng cử nhân ngoại ngữ, bằng tốt nghiệp đại học theo quy định nêu trên thì phải thông thạo ngôn ngữ cần dịch. Đây là quy định mang tính mở, nhằm đáp ứng các yêu cầu về dịch thuật đối với các ngôn ngữ như Lào, Campuchia…ở gần khu vực biên giới.

b) Cộng tác viên dịch thuật

Theo quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP và Thông tư số 03/2008/TT-BTP hướng dẫn thi hành Nghị định số 79 thì người dịch chỉ cần có đủ điều kiện về bằng cấp là có thể được ký hợp đồng cộng tác viên dịch thuật với Phòng Tư pháp. Tuy nhiên, do trong thời gian qua, tình trạng dịch sai sót, nhầm lẫn, không thống nhất, không đầy đủ, không chính xác vẫn còn xảy ra nhiều, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Do đó, tại Điều 28 của Nghị định đã quy định chặt chẽ hơn, đồng thời, giao trách nhiệm cho Trưởng Phòng Tư pháp. Theo đó, người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện nêu trên được làm cộng tác viên dịch thuật của Phòng Tư pháp trong phạm vi cả nước. Phòng Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra tiêu chuẩn, điều kiện của Cộng tác viên dịch thuật và lập danh sách cộng tác viên dịch thuật của Phòng, báo cáo Sở Tư pháp phê duyệt. Trên cơ sở danh sách cộng tác viên dịch thuật đã được Sở Tư pháp phê duyệt, Phòng Tư pháp niêm yết công khai tại trụ sở của Phòng Tư pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho người yêu cầu chứng thực trong việc liên hệ tìm người dịch.

Người dịch là cộng tác viên của Phòng Tư pháp phải ký hợp đồng cộng tác viên dịch thuật với Phòng Tư pháp, trong đó xác định rõ trách nhiệm của người dịch đối với nội dung, chất lượng của bản dịch.

c) Đăng ký chữ ký mẫu (Điều 29)

Để tạo điều kiện cho người dịch là cộng tác viên dịch thuật của các Phòng Tư pháp, tránh việc mỗi lần có yêu cầu người dịch lại phải đến Phòng Tư pháp để yêu cầu chứng thực chữ ký, Điều 29 của Nghị định đã quy định người dịch là cộng tác viên của Phòng Tư pháp phải đăng ký chữ ký mẫu tại Phòng Tư pháp. Khi đăng ký chữ ký mẫu, người dịch phải nộp Văn bản đề nghị đăng ký chữ ký mẫu và trực tiếp ký 03 (ba) chữ ký mẫu trong Văn bản đề nghị đăng ký chữ ký mẫu trước mặt Trưởng Phòng Tư pháp.

d) Trách nhiệm của người dịch và người thực hiện chứng thực chữ ký người dịch (Điều 30)

Để nâng cao trách nhiệm của người dịch, qua đó nâng cao chất lượng bản dịch, Điều 30 Nghị định quy định: người dịch phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước khách hàng, trước cơ quan thực hiện chứng thực về tính chính xác của nội dung bản dịch; không được dịch những giấy tờ, văn bản không được dịch để chứng thực chữ ký người dịch.

Người thực hiện chứng thực chịu trách nhiệm về tính xác thực về chữ ký của người dịch trong bản dịch.

đ) Thủ tục chứng thực chữ ký người dịch (Điều 31)

Điều 31 của Nghị định có quy định khác nhau đối với yêu cầu chứng thực chữ ký người dịch của cộng tác viên dịch thuật của Phòng Tư pháp, người tự dịch giấy tờ, văn bản phục vụ mục đích cá nhân và người dịch là viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự, cụ thể như sau:

– Người dịch là cộng tác viên của Phòng Tư pháp yêu cầu chứng thực chữ ký của mình phải xuất trình bản dịch và giấy tờ, văn bản cần dịch.

Khi thực hiện chứng thực, người thực hiện chứng thực phải đối chiếu chữ ký của họ trên bản dịch với chữ ký mẫu trước khi thực hiện chứng thực; trường hợp nghi ngờ chữ ký trên bản dịch so với chữ ký mẫu thì yêu cầu người dịch đến ký trước mặt mình. Như vậy, trong trường hợp này, người dịch không phải ký trước mặt người thực hiện chứng thực mà có thể ký trước vào bản dịch và có thể ủy quyền cho người khác đi chứng thực chữ ký thay cho mình.

– Đối với người dịch không phải là cộng tác viên dịch thuật của Phòng Tư pháp mà tự dịch giấy tờ, văn bản phục vụ mục đích cá nhân và có yêu cầu chứng thực chữ ký trên bản dịch thì phải xuất trình các giấy tờ sau đây:

+ Bản chính hoặc bản sao có chứng thực Giấy Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu còn giá trị sử dụng;

+ Bản chính hoặc bản sao từ sổ gốc, bản sao có chứng thực bằng cử nhân ngoại ngữ trở lên về thứ tiếng nước ngoài cần dịch hoặc bằng tốt nghiệp đại học trở lên tại nước ngoài đối với thứ tiếng nước ngoài cần dịch; trừ trường hợp dịch những ngôn ngữ không phổ biến mà người dịch không có bằng cử nhân ngoại ngữ, bằng tốt nghiệp đại học nhưng thông thạo ngôn ngữ cần dịch.

+ Bản dịch đính kèm giấy tờ, văn bản cần dịch.

Người dịch phải ký trước mặt người thực hiện chứng thực (trừ trường hợp cơ quan thực hiện chứng thực tiếp nhận hồ sơ chứng thực tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông).

– Thủ tục chứng thực được quy định như sau:

Người thực hiện chứng thực kiểm tra giấy tờ yêu cầu chứng thực, tùy theo từng trường hợp, nếu thấy đủ giấy tờ theo quy định, giấy tờ, văn bản được dịch không thuộc các trường hợp không được dịch thì thực hiện chứng thực như sau:

+ Ghi đầy đủ lời chứng chứng thực chữ ký người dịch theo mẫu quy định;

+ Ký, ghi rõ họ tên, đóng dấu của cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực và ghi vào sổ chứng thực.

Đối với bản dịch giấy tờ, văn bản có từ 02 (hai) trang trở lên thì ghi lời chứng vào trang cuối, nếu giấy tờ, văn bản có từ 02 (hai) tờ trở lên thì phải đóng dấu giáp lai.

– Trường hợp người dịch là viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự đồng thời là người thực hiện chứng thực tại các Cơ quan đại diện thì viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự phải cam đoan về việc đã dịch chính xác nội dung giấy tờ, văn bản; ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu của Cơ quan đại diện.

e) Giấy tờ, văn bản không được dịch để chứng thực chữ ký người dịch

Để có cơ sở pháp lý cho người dịch và người thực hiện chứng thực từ chối dịch hoặc từ chối chứng thực chữ ký người dịch, Nghị định đã bổ sung quy định mới tại Điều 32 về những loại giấy tờ, văn bản không được dịch để chứng thực chữ ký người dịch, bao gồm các loại giấy tờ, văn bản sau:

– Giấy tờ, văn bản đã bị tẩy xóa, sửa chữa, thêm, bớt nội dung không hợp lệ.

– Giấy tờ, văn bản bị hư hỏng, cũ nát không xác định được nội dung.

– Giấy tờ, văn bản đóng dấu mật của cơ quan, tổ chức có thẩm quyển hoặc giấy tờ, văn bản không đóng dấu mật nhưng cơ quan, tổ chức có thẩm quyền không cho phép dịch.

– Giấy tờ, văn bản có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội; tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xuyên tạc lịch sử của dân tộc Việt Nam; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức; vi phạm bí mật đời tư cá nhân.

– Giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng nhận chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật trước khi yêu cầu dịch để chứng thực chữ ký người dịch, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc nguyên tắc có đi, có lại.

g) Thời hạn chứng thực chữ ký người dịch

Thời hạn thực hiện yêu cầu chứng thực chữ ký phải được bảo đảm ngay trong ngày Phòng Tư pháp tiếp nhận yêu cầu hoặc trong ngày làm việc tiếp theo, nếu tiếp nhận yêu cầu sau 15 giờ hoặc có thể kéo dài hơn theo thỏa thuận bằng văn bản với người yêu cầu chứng thực.

6. Chứng thực hợp đồng, giao dịch

a) Trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực hợp đồng, giao dịch Theo quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì khi thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch, người thực hiện chứng thực có trách nhiệm: xác định năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu chứng thực và xét thấy nội dung hợp đồng đã được soạn thảo không trái pháp luật, đạo đức xã hội thì thực hiện chứng thực (Khoản 3 Điều 41 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP). Như vậy, người thực hiện chứng thực phải chịu trách nhiệm về nội dung của hợp đồng, giao dịch và văn bản được chứng thực có giá trị ngang với văn bản được công chứng.

Để đạt được mục tiêu đưa hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch về đúng với bản chất của hoạt động chứng thực (chứng thực hình thức), tại Điều 34 Nghị định về chứng thực đã quy định rất cụ thể trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực và người thực hiện chứng thực. Theo đó, người yêu cầu chứng thực phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch. Người thực hiện chứng thực chỉ chịu trách nhiệm về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.

Tuy nhiên, trong trường hợp người thực hiện chứng thực phát hiện ra nội dụng của hợp đồng, giao dịch trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xuyên tạc lịch sử của dân tộc Việt Nam, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức, vi phạm bí mật đời tư cá nhân thì có quyền từ chối chứng thực.

b) Thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch

Do Nghị định này hướng tới mục tiêu đưa hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch về đúng với bản chất của hoạt động chứng thực (mang tính hình thức. Do đó, tại Điều 36 Nghị định chỉ quy định chung một trình tự, thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch khá đơn giản, người thực hiện chứng thực tiếp nhận hồ sơ và kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu chứng thực, nếu hồ sơ có đủ các giấy tờ theo quy định, người yêu cầu chứng thực có đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật, các bên tự nguyện giao kết hợp đồng thì thực hiện chứng thực. Cụ thể như sau:

Thứ nhất: Khoản 1 Điều 36 quy định người yêu cầu chứng thực nộp 01 (một) bộ hồ sơ yêu cầu chứng thực, gồm các giấy tờ sau đây:

+ Dự thảo hợp đồng, giao dịch (người thực hiện chứng thực không có trách nhiệm soạn thảo hợp đồng, giao dịch cho người yêu cầu chứng thực);

+ Bản sao Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu còn giá trị sử dụng của người yêu cầu chứng thực;

+ Bản sao giấy tờ liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có, như giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản hoặc bản sao giấy tờ thay thế đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, trừ trường hợp người lập di chúc đang bị cái chết đe dọa đến tính mạng.

Bản sao giấy tờ nêu trên được xuất trình kèm bản chính để đối chiếu.

Thứ hai: Sau khi tiếp nhận hồ sơ của người yêu cầu chứng thực, người thực hiện chứng thực kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu chứng thực, nếu hồ sơ đầy đủ, tại thời điểm chứng thực các bên tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn và nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì thực hiện chứng thực (khoản 2 Điều 36).

Thứ 3: Các bên tham gia hợp đồng, giao dịch phải ký trước mặt người thực hiện chứng thực. Tuy nhiên, đối với trường hợp người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp đã đăng ký chữ ký mẫu tại cơ quan thực hiện chứng thực thì có thể ký trước vào hợp đồng; người thực hiện chứng thực phải đối chiếu chữ ký của họ trong hợp đồng với chữ ký mẫu trước khi thực hiện chứng thực, nếu nghi ngờ chữ ký trong hợp đồng khác với chữ ký mẫu thì yêu cầu người đó đến ký trước mặt mình. Trong trường hợp người yêu cầu chứng thực không ký được thì phải điểm chỉ; nếu người đó không đọc được, không nghe được, không ký, không điểm chỉ được thì phải có hai người làm chứng. Người làm chứng phải có đủ năng lực hành vi dân sự và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng, giao dịch (khoản 3)

Thứ tư: Sau khi hoàn tất các thủ tục, người thực hiện chứng thực ghi lời chứng tương ứng với từng loại hợp đồng, giao dịch theo mẫu quy định; ký, ghi rõ họ tên, đóng dấu của cơ quan thực hiện chứng thực và ghi vào sổ chứng thực. Đối với hợp đồng, giao dịch có từ 02 (hai) trang trở lên, thì từng trang phải được đánh số thứ tự, có chữ ký của người yêu cầu chứng thực và người thực hiện chứng thực; số lượng trang và lời chứng được ghi tại trang cuối cùng của hợp đồng, giao dịch. Trường hợp hợp đồng, giao dịch có từ 02 (hai) tờ trở lên thì phải đóng dấu giáp lai (khoản 4).

Lưu ý: Trong trường hợp một trong các bên tham gia hợp đồng, giao dịch không thông thạo tiếng Việt thì phải có phiên dịch, người phiên dịch có trách nhiệm dịch đầy đủ, chính xác nội dung của hợp đồng, giao dịch, nội dung lời chứng cho người yêu cầu chứng thực và ký vào từng trang hợp đồng với tư cách là người phiên dịch.

c) Thời hạn chứng thực hợp đồng, giao dịch (Điều 37)

Điều 37 của Nghị định quy định thời hạn chứng thực hợp đồng, giao dịch là không quá hai ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ yêu cầu chứng thực. Tuy nhiên, thời hạn này cũng có thể kéo dài hơn theo thỏa thuận bằng văn bản với người yêu cầu chứng thực.

d) Chứng thực việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch (Điều 38)

Theo quy định tại Điều 38 thì việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực chỉ được thực hiện khi có thỏa thuận bằng văn bản của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch được thực hiện tại cơ quan đã chứng thực hợp đồng, giao dịch đó. Tuy nhiên, để bảo đảm thuận tiện cho người yêu cầu chứng thực thì trong trường hợp sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể chứng thực tại bất kỳ cơ quan có thẩm quyền chứng thực nào; cơ quan, tổ chức đã thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đã chứng thực trước đây về nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc để ghi chú vào Sổ chứng thực hợp đồng, giao dịch.

Thủ tục chứng thực việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực được thực hiện theo quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch quy định tại Chương này.

đ) Sửa sai sót trong hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực (Điều 39)

Cơ quan thực hiện chứng thực chỉ thực hiện việc sửa lỗi sai sót trong ghi chép, đánh máy, in hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực theo thỏa thuận bằng văn bản của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, nếu không làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.

Khi sửa lỗi sai sót, người thực hiện chứng thực gạch chân lỗi sai sót cần sửa, đóng dấu của cơ quan thực hiện chứng thực và ghi vào bên lề của hợp đồng, giao dịch nội dung đã sửa, họ tên, chữ ký của người sửa, ngày tháng năm sửa.

e) Cấp bản sao có chứng thực từ bản chính hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực (Điều 40)

Cơ quan thực hiện chứng thực đang lưu trữ hợp đồng, giao dịch có trách nhiệm cấp bản sao có chứng thực từ bản chính hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực theo yêu cầu của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng, giao dịch. Để có căn cứ cấp bản sao từ bản gốc hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực, người yêu cầu cấp bản sao phải xuất trình Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu còn giá trị sử dụng để người thực hiện chứng thực kiểm tra.

Thủ tục chứng thực bản sao từ bản chính hợp đồng, giao dịch được thực hiện tương tự như việc chứng thực bản sao từ bản chính.

7. Quản lý nhà nước về chứng thực

a) Trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về chứng thực (Điều 41)

Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về chứng thực trong phạm vi cả nước, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Soạn thảo, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về chứng thực; hướng dẫn, chỉ đạo chung việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về chứng thực; kiểm tra, thanh tra hoạt động chứng thực; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm hành chính liên quan đến chứng thực theo thẩm quyền; ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện chứng thực và quản lý nhà nước về chứng thực; hợp tác quốc tế về chứng thực; hằng năm, tổng hợp tình hình và thống kê số liệu các việc về chứng thực báo cáo Chính phủ.

b) Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao trong quản lý nhà nước về chứng thực (Điều 42)

Điều 42 của Nghị định quy định trách nhiệm của Bộ Ngoại giao và cơ quan đại diện trong quản lý nhà nước về chứng thực, cụ thể như sau:

– Đối với Bộ Ngoại giao: Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về chứng thực đối với các Cơ quan đại diện, có nhiệm vụ, quyền hạn sau: Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra về công tác chứng thực tại các Cơ quan đại diện; tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chứng thực cho viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự làm công tác chứng thực tại các Cơ quan đại diện; định kỳ 6 tháng và hằng năm, tổng hợp tình hình và thống kê số liệu về chứng thực của các Cơ quan đại diện gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp; giải quyết khiếu nại, tố cáo về chứng thực theo thẩm quyền.

– Đối với cơ quan đại diện: cơ quan đại diện thực hiện quản lý nhà nước về chứng thực trong phạm vi địa bàn, có nhiệm vụ, quyền hạn sau: Thực hiện các việc chứng thực thuộc thẩm quyền của Cơ quan đại diện theo quy định tại Nghị định này; lưu trữ sổ chứng thực, Văn bản chứng thực; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm hành chính liên quan đến chứng thực theo thẩm quyền; định kỳ hằng năm, tổng hợp tình hình và thống kê số liệu về chứng thực báo cáo Bộ Ngoại giao theo quy định.

Viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao làm công tác chứng thực có trách nhiệm giúp Cơ quan đại diện thực hiện các nhiệm vụ theo quy định trên, trừ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm hành chính liên quan đến chứng thực.

c) Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về chứng thực (Điều 43)

Điều 43 của Nghị định quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về chứng thực

– Đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về chứng thực tại địa phương; hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ chứng thực cho cán bộ, công chức làm công tác chứng thực tại Phòng Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã và công chứng viên của các tổ chức hành nghề công chứng; tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về chứng thực; ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện chứng thực và quản lý nhà nước về chứng thực trong phạm vi địa phương để đáp ứng yêu cầu cung cấp, trao đổi thông tin; kiểm tra, thanh tra hoạt động chứng thực của Phòng Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã, các tổ chức hành nghề công chứng; có biện pháp chấn chỉnh tình hình lạm dụng yêu cầu bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện thủ tục hành chính trên địa bàn, nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm hành chính liên quan đến chứng thực theo thẩm quyền; định kỳ 6 tháng và hằng năm, tổng hợp tình hình và thống kê số liệu về chứng thực trong địa phương, báo cáo Bộ Tư pháp theo quy định.

Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, trừ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm hành chính liên quan đến chứng thực.

– Ủy ban nhân dân huyện cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về chứng thực trong địa phương, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ chứng thực cho cán bộ, công chức làm công tác chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn; tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về chứng thực; cấp bản sao có chứng thực từ bản chính hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực; lưu trữ sổ chứng thực, Văn bản chứng thực; kiểm tra, thanh tra hoạt động chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã; có biện pháp chấn chỉnh tình hình lạm dụng yêu cầu bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện thủ tục hành chính trên địa bàn, nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm hành chính liên quan đến chứng thực theo thẩm quyền; định kỳ 6 tháng và hằng năm, tổng hợp tình hình và thống kê số liệu về chứng thực, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định.

Phòng Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, trừ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm hành chính liên quan đến chứng thực. Trưởng Phòng Tư pháp, Phó trưởng Phòng Tư pháp phải thông báo mẫu chữ ký khi ký chứng thực cho Sở Tư pháp.

– Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý nhà nước về chứng thực trong địa phương, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Thực hiện các việc chứng thực thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định tại Nghị định này; tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật về chứng thực; cấp bản sao có chứng thực từ bản chính hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực; lưu trữ sổ chứng thực, Văn bản chứng thực; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm hành chính liên quan đến chứng thực theo thẩm quyền; định kỳ 6 tháng và hằng năm, tổng hợp tình hình và thống kê số liệu về chứng thực báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện theo quy định.

Công chức Tư pháp – Hộ tịch giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, trừ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm hành chính liên quan đến chứng thực. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông báo mẫu chữ ký khi ký chứng thực cho Sở Tư pháp.

d) Xử lý vi phạm (Điều 44)

Điều 44 của Nghị định chỉ quy định một số nguyên tắc trong xử lý vi phạm hành chính liên quan đến lĩnh vực chứng thực.

Việc xử phạt vi phạm hành chính đối với người thực hiện chứng thực, người yêu cầu chứng thực, người dịch được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Trong trường hợp người thực hiện chứng thực gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức do lỗi của mình thì sẽ bị xử lý kỷ luật, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Người dịch mà gây thiệt hại cho người yêu cầu dịch do lỗi của mình thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

đ) Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo (Điều 45)

Việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại; việc tố cáo, giải quyết tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động chứng thực được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

8. Điều khoản thi hành

a) Nhiệm vụ của các tổ chức hành nghề công chứng (Điều 46)

Tổ chức hành nghề công chứng khi thực hiện chứng thực có trách nhiệm lưu trữ sổ chứng thực, Văn bản chứng thực; định kỳ 6 tháng và hằng năm, tổng hợp tình hình và thống kê số liệu về chứng thực báo cáo Sở Tư pháp theo quy định.

b) Điều khoản chuyển tiếp

Điều khoản chuyển tiếp tại Điều 47 quy định đối với hai nội dung khác nhau:

– Thứ nhất: Đối với những địa bàn cấp huyện, cấp xã đã chuyển giao việc chứng thực hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng, mà hợp đồng, giao dịch trước đó được chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thì việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, sửa lỗi sai sót trong khi ghi chép, đánh máy, in hợp đồng, giao dịch vẫn được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã, nơi đã thực hiện chứng thực trước đây.

Thứ hai: Theo quy định của Luật nhà ở năm 2005 thì UBND cấp huyện chứng thực các hợp đồng, giao dịch đối với nhà ở tại đô thị, UBND cấp xã chứng thực hợp đồng, giao dịch đối với nhà ở tại nông thôn. Tuy nhiên, Luật nhà ở năm 2015 giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch về nhà ở cho UBND cấp xã. Chính vì vậy, khoản 2 Điều 47 của Nghị định quy định UBND cấp huyện thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở tại đô thị theo quy định tại Điều 93 của Luật Nhà ở năm 2005 cho đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2015.

9. Mẫu lời chứng, mẫu sổ chứng thực ban hành kèm theo Nghị định

a) Mẫu lời chứng

Ban hành kèm theo Nghị định này là mẫu lời chứng chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Để tiện cho cơ quan thực hiện chứng thực thì mẫu lời chứng có thể được đánh máy hoặc khắc trên mẫu dấu, cụ thể như sau:

– Lời chứng chứng thực bản sao từ bản chính:

Chứng thực bản sao đúng với bản chính

Số chứng thực ……………. quyển số ……………. (1) – SCT/BS

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người thực hiện chứng thực ký, ghi rõ họ, tên và đóng dấu (2)

– Lời chứng chứng thực chữ ký:

Trong lời chứng chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản bao gồm 04 mẫu lời chứng tương ứng với các trường hợp khác nhau:

+ Lời chứng chứng thực chữ ký của một người trong một giấy tờ, văn bản

Ngày …………. tháng ……………. năm……………. (Bằng chữ………………)

Tại…………………………………………………………………….(4),.….giờ….phút. Tôi (5)…………………., là (6)………………………………………………………………

Chứng thực

Ông/bà……..…………………….Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3)số………………,

Ông/bà……..…………………………………… cam đoan đã hiểu, tự chịu trách nhiệm về nội dung của giấy tờ, văn bản và đã ký vào giấy tờ, văn bản này trước mặt tôi.

Số chứng thực ……………. quyển số ……………. (1) – SCT/CK, CĐ

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người thực hiện chứng thực ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu (2)

+ Lời chứng chứng thực chữ ký của một người trong một giấy tờ, văn bản

Ngày …………. tháng ……………. năm……………. (Bằng chữ………………)

Tại…………………………………………………………………….(4),.….giờ….phút. Tôi (5)…………………., là (6)………………………………………………………………

Chứng thực

Ông/bà……..…………………….Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3)số………………,

Ông/bà……..…………………………………… cam đoan đã hiểu, tự chịu trách nhiệm về nội dung của giấy tờ, văn bản và đã ký vào giấy tờ, văn bản này trước mặt tôi.

Số chứng thực ……………. quyển số ……………. (1) – SCT/CK, CĐ

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người thực hiện chứng thực ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu (2)

+ Lời chứng chứng thực chữ ký của nhiều người trong một giấy tờ, văn bản

Ngày …..…. tháng ……….. năm……… (Bằng chữ………………….………)

Tại……………………………………………………………….(4),.….giờ….phút. Tôi (5)………………, là (6)…………………………………………………………………

Chứng thực

Các ông/bà có tên sau đây:

– Ông/bà……..………………..Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3) số………,

– Ông/bà……..………………Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3) số………….,

– Ông/bà……..…………..Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3) số………….,

…………….

– Các ông/bà có tên trên cam đoan đã hiểu, tự chịu trách nhiệm về nội dung của giấy tờ, văn bản và đã cùng ký vào giấy tờ, văn bản này trước mặt tôi.

Số chứng thực ……………. quyển số ……………. (1) – SCT/CK, ĐC

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người thực hiện chứng thực ký, ghi rõ họ, tên và đóng dấu (2)

+ Lời chứng chứng thực điểm chỉ

Ngày ……..tháng …… năm……..(Bằng chữ…………………………………………….)

Tại……………………………………………………………………………..(4),.….giờ….phút. Tôi (5)…………………., là (6)……………………………………………………………

Chứng thực

– Ông/bà……..………………..Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3)số………….,

– Ông/bà………………………….. cam đoan đã hiểu, tự chịu trách nhiệm về nội dung của giấy tờ, văn bản và đã điểm chỉ vào giấy tờ, văn bản này trước mặt tôi.

Số chứng thực ……………. quyển số ……………. (1) – SCT/CK, ĐC

Ngày …………. tháng ……………. năm…………

Người thực hiện chứng thực ký, ghi rõ họ, tên và đóng dấu (2)

+ Lời chứng chứng thực trong trường hợp không ký, không điểm chỉ được

Ngày ….. tháng ….. năm…….. (Bằng chữ……………………………………………..)

Tại……………………………………………………………………………..(4),.….giờ….phút. Tôi (5)…………………., là (6)……………………………………………………………

Chứng thực

Ông/bà……..……………Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3) số………..….,

không ký, không điểm chỉ được nhưng cam đoan đã hiểu, tự chịu trách nhiệm về nội dung của giấy tờ, văn bản này.

Số chứng thực ……………. quyển số ……………. (1) – SCT/CK, ĐC

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người thực hiện chứng thực ký, ghi rõ họ, tên và đóng dấu (2)

– Lời chứng chứng thực chữ ký người dịch

Tôi……..………………….Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3) số……..…………., cam đoan đã dịch chính xác nội dung của giấy tờ/văn bản này từ tiếng…………sang tiếng …………..

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người dịch ký và ghi rõ họ tên

Ngày ….. tháng ….. năm…….. (Bằng chữ…………………………………………….)

Tại………………………………………………….(4),Tôi (5)…………….,là (6)……………….

Chứng thực

Ông/bà ……………………….là người đã ký vào bản dịch này trước mặt tôi (10).

Số chứng thực ……………. quyển số ……………. (1) – SCT/CK,CĐ

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người thực hiện chứng thực ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu (2)

– Lời chứng chứng thực hợp đồng, giao dịch

+ Lời chứng chứng thực hợp đồng, giao dịch

Ngày ….. tháng ….. năm…….. (Bằng chữ…………………………………………….)

Tại………………………………………………………………………………(4),.….giờ….phút. Tôi (5)…………………., là (6)……………………………………………………………..

Chứng thực

– Hợp đồng …………………………………………………… (7) được giao kết giữa:

Bên A: Ông/bà: ……………………………………………… ………………Giấy chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3) số ………………….

Bên B: Ông/bà……………………………………………………….Giấy chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3) số ………………..

– Các bên tham gia hợp đồng, giao dịch đã cam đoan chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung của hợp đồng, giao dịch.

– Tại thời điểm chứng thực, các bên tham gia hợp đồng, giao dịch minh mẫn, nhận thức và làm chủ được hành vi của mình; tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng và đã ký/điểm chỉ (9) vào hợp đồng, giao dịch này trước mặt tôi.

Hợp đồng này gồm ………. bản chính (mỗi bản chính gồm ………. tờ, ….trang), cấp cho:

+ …………………………………….bản chính;

+ ……………………………………..bản chính.

Lưu tại Phòng Tư pháp /UBND cấp xã (8) 01 (một) bản chính.

Số chứng thực ……………. quyển số ……………. (1) – SCT/HĐ,GD

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người thực hiện chứng thực ký,ghi rõ họ, tên và đóng dấu (2)

+ Lời chứng chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản

Ngày ….. tháng ….. năm…….. (Bằng chữ……………………………………………..)

Tại……………………………………………………………………………..(4),.….giờ….phút. Tôi (5)…………………., là (6)……………………………………………………………

Chứng thực

Văn bản thỏa thuận phân chia di sản được lập bởi các ông/bà có tên sau đây:

1. Ông/bà……..…………….Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3) số…..…….,

2. Ông/bà……..…………….Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3)số…………..,

3. Ông/bà……..……………Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3)số………..….,

……………

– Những ông/bà có tên trên đã cam đoan không bỏ sót người thừa kế và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung của văn bản thỏa thuận phân chia di sản.

– Tại thời điểm chứng thực, những người thỏa thuận phân chia di sản minh mẫn, nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, tự nguyện thỏa thuận phân chia di sản và đã cùng ký/điểm (9) chỉ vào văn bản thỏa thuận phân chia di sản này trước mặt tôi. Văn bản thỏa thuận phân chia di sản này gồm ……..bản chính (mỗi bản chính gồm….. tờ, trang), cấp cho:

+ ……………………………………………bản;

+ ……………………………………………bản;

+ ……………………………………………bản;

…………………

Lưu tại Phòng Tư pháp/UBND cấp xã 01 (một) bản.

Số chứng thực ……………. quyển số ……………. (1) – SCT/HĐ,GD

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người thực hiện chứng thực ký, đóng dấu (2)

+ Lời chứng chứng thực văn bản khai nhận di sản

Ngày ….. tháng ….. năm…….. (Bằng chữ………………………………………………)

Tại……………………………………………………………………………..(4),.….giờ….phút. Tôi (5)…………………., là (6)…………………………………………………………..

Chứng thực

Văn bản khai nhận di sản này được lập bởi ông/bà…………………………………….. Giấy chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3) số……………………

– Ông/bà……………………………….đã cam đoan là người thừa kế duy nhất và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung khai nhận di sản.

– Tại thời điểm chứng thực, ông/bà………………………………………………minh mẫn, nhận thức và làm chủ được hành vi của mình và đã ký/điểm chỉ (9) vào văn bản khai nhận di sản này trước mặt tôi.

Văn bản khai nhận di sản này gồm ……….. bản chính (mỗi bản chính gồm ……. tờ, trang); cấp cho người khai nhận di sản…………..bản, lưu tại Phòng Tư pháp/Ủy ban nhân dân cấp xã 01 bản.

Số chứng thực ……………. quyển số ……………. (1) – SCT/HĐ,GD

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người thực hiện chứng thực ký, đóng dấu (2)

+ Lời chứng chứng thực di chúc

Ngày ….. tháng ….. năm…….. (Bằng chữ……………………………………………..)

Tại……………………………………………………………………………..(4),.….giờ….phút. Tôi (5)…………………., là (6)……………………………………………………………

Chứng thực

– Ông/bà ………………………………………………….Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3) số………………….. đã tự nguyện lập di chúc này.

– Ông/bà ……………………………………………..đã cam đoan chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung của di chúc.

– Tại thời điểm chứng thực, ông/bà …………………………………….. minh mẫn, sáng suốt, nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, tự nguyện lập di chúc và đã ký/điểm chỉ (9) vào di chúc này trước mặt tôi.

Di chúc này được làm thành gồm ……. bản chính (mỗi bản chính gồm …….. tờ, trang); giao cho người lập di chúc ……………… bản; lưu tại UBND xã/phường/thị trấn 01 (một) bản.

Số chứng thực ……………. quyển số …………….(1) – SCT/HĐ,GD

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người thực hiện chứng thực ký, đóng dấu (2)

+ Lời chứng chứng thực văn bản từ chối nhận di sản

Ngày …………. tháng ……………. năm……………. (Bằng chữ……………………)

Tại………………………………………………………………..(4), .….giờ……phút.

Tôi (5)…………………………., là (6)…………………………………………………..

Chứng thực

– Văn bản từ chối nhận di sản này được lập bởi ông/bà …………………Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (3) số…………………;

– Ông/bà ………………… đã cam đoan chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung của văn bản từ chối nhận di sản.

– Tại thời điểm chứng thực, ông/bà ………………… minh mẫn, nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, tự nguyện từ chối nhận di sản và đã ký/điểm chỉ (9) vào văn bản từ chối nhận di sản này trước mặt tôi.

Văn bản từ chối nhận di sản này được lập thành ………………… bản chính (mỗi bản gồm … tờ, ………trang), giao cho người từ chối nhận di sản … bản; lưu tại UBND xã/phường/thị trấn 01 (một) bản.

Số chứng thực ……………. quyển số …………….(1) – SCT/HĐ,GD

Ngày …………. tháng ……………. năm…………….

Người thực hiện chứng thực ký, đóng dấu (2)

Chú thích

– (1) Ghi theo thông tin đã ghi tại bìa sổ chứng thực (ví dụ: 01/2015).

– (2) Nếu thực hiện tại Phòng Tư pháp thì Trưởng phòng/Phó trưởng phòng ký, đóng dấu Phòng Tư pháp; nếu thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã thì Chủ tịch/Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân ký, đóng dấu Ủy ban nhân dân cấp xã; nếu thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng thì công chứng viên ký, đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.

– (3) Gạch bỏ loại giấy tờ (nếu là Chứng minh nhân dân thì gạch ngang Hộ chiếu, nếu là Hộ chiếu thì gạch ngang cụm từ Chứng minh nhân dân).

– (4) Ghi rõ địa điểm thực hiện chứng thực (ví dụ: UBND xã A, huyện B); chỉ cần ghi giờ, phút trong trường hợp chứng thực ngoài trụ sở.

– (5) Ghi rõ họ và tên của người thực hiện chứng thực.

– (6) Ghi rõ chức danh của người thực hiện chứng thực, kèm theo tên cơ quan thực hiện chứng thực (ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh C, Trưởng phòng Tư pháp huyện A, tỉnh B; Công chứng viên Phòng Công chứng số 1 thành phố H).

– (7) Tên của hợp đồng, giao dịch được chứng thực (ví dụ: hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng tặng cho xe ô tô…).

– (8) Nếu là Phòng Tư pháp thì gạch ngang UBND cấp xã, nếu là UBND cấp xã thì gạch ngang Phòng Tư pháp.

– (9) Nếu ký thì gạch ngang cụm từ “điểm chỉ”, nếu điểm chỉ thì gạch ngang từ “ký”.

– (10) Trường hợp đã đăng ký chữ ký mẫu, thì gạch ngang cụm từ “trước mặt tôi”.

b) Mẫu sổ chứng thực

Sổ chứng thực được đóng quyển theo từng loại việc chứng thực. Có 04 (bốn) loại sổ chứng thực, bao gồm: Sổ Chứng thực bản sao từ bản chính; Sổ Chứng thực chữ ký, chứng thực điểm chỉ; Sổ chứng thực chữ ký người dịch, Sổ Chứng thực hợp đồng, giao dịch.

* Mẫu bìa sổ

– Sổ Chứng thực bản sao từ bản chính

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

________________

SỔ CHỨNG THỰC BẢN SAO TỪ BẢN CHÍNH

…………………………………………………………………(A)

Quyển số (B): ……………………..-SCT/BS

Mở ngày …………tháng ………..năm ……………………. (C) Khóa ngày …………….tháng ……năm …………………….(D)

– Sổ Chứng thực chữ ký/chứng thực điểm chỉ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SỔ CHỨNG THỰC CHỮ KÝ/CHỨNG THỰC ĐIỂM CHỈ

…………………………………………………………………(A)

Quyển số (B): ……………………..-SCT/CK,ĐC

Mở ngày …………tháng ………..năm ……………………. (C) Khóa ngày …………….tháng ……năm …………………….(D)

1.3. Sổ Chứng thực chữ ký người dịch

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SỔ CHỨNG THỰC CHỮ KÝ NGƯỜI DỊCH

……..…………………………………………………………(A)

Quyển số (B): ……………………..-SCT/CKND

Mở ngày …………tháng ………..năm ……………………. (C) Khóa ngày …………….tháng ……năm …………………….(D)

1.4. Sổ Chứng thực hợp đồng, giao dịch

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SỔ CHỨNG THỰC HỢP ĐỒNG, GIAO DỊCH

…………………………………………………………………(A)

Quyển số (B): ……………………..-SCT/HĐ.GD

Mở ngày …………tháng ………..năm ……………………. (C) Khóa ngày …………….tháng ……năm …………………….(D)

Chú thích:

– (A) Ghi đầy đủ tên cơ quan/tổ chức thực hiện chứng thực, kèm theo địa giới hành chính (Ví dụ: Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh C; Phòng Tư pháp huyện A, tỉnh B; Phòng Công chứng số 1 thành phố H).

– (B) Ghi số quyển, năm thực hiện chứng thực (ví dụ: 01/2015. Nếu một năm dùng nhiều sổ thì ghi số thứ tự liên tiếp (ví dụ: 02/2015); trường hợp sổ sử dụng cho nhiều năn thì ghi số thứ tự theo từng năm (ví dụ: 01/2015 + 01/2016).

– (C) Ghi ngày, tháng năm mở sổ.

– (D) Ghi ngày, tháng, năm khóa sổ.

2. Nội dung sổ

2.1. Sổ chứng thực bản sao từ bản chính

Số
thứ tự/ số chứng thực
Ngày, tháng, năm chứng thực Họ tên của người yêu cầu chứng thực Tên của bản chính giấy tờ, văn bản Họ tên, chức danh người ký
chứng thực
Số bản sao đã được chứng thực Lệ phí/

Phí chứng thực

Ghi chú
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)

Chú thích:

– (4) Đối với bản chính giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài mà người thực hiện chứng thực không xác định được tên của bản chính giấy tờ, văn bản thì chỉ cần ghi theo ngôn ngữ của loại giấy tờ, văn bản đó (ví dụ: bản chính bằng tiếng Anh, bản chính bằng tiếng Pháp…).

– (7) Ghi theo lệ phí, nếu việc chứng thực được thực hiện tại Phòng Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan đại diện; ghi theo phí chứng thực, nếu việc chứng thực được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng.

2.2. Sổ Chứng thực chữ ký/chứng thực điểm chỉ

 Số thứ tự/ số
chứng thực
Ngày, tháng, năm chứng thực Họ tên, số CMND/

Hộ chiếu của người yêu cầu chứng thực

Tên của giấy tờ, văn bản đã chứng thực chữ ký/điểm chỉ Họ tên, chức danh người ký
chứng thực
Số lượng giấy tờ, văn bản đã được chứng thực chữ ký/điểm chỉ Lệ phí/

Phí chứng thực

Ghi chú
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)

Chú thích:

– (4) Đối với bản chính giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài mà người thực hiện chứng thực không xác định được tên của bản chính giấy tờ, văn bản thì chỉ cần ghi theo khai báo của người yêu cầu chứng thực.

– (6) Thống kê theo số giấy tờ, văn bản mà người thực hiện chứng thực đã ký chứng thực (ví dụ: một loại giấy tờ, văn bản được lập thành 10 bản, người thực hiện chứng thực ký chứng thực trong 10 giấy tờ, văn bản đó thì số lượng giấy tờ, văn bản đã được chứng thực chữ ký là 10; 05 loại giấy tờ, văn bản khác nhau, mỗi loại được lập thành 01 bản, người thực hiện chứng thực ký chứng thực trong 05 loại giấy tờ, văn bản đó thì số lượng giấy tờ, văn bản đã được chứng thực chữ ký là 05; 10 người ký trong một giấy tờ, văn bản, người thực hiện chứng thực ký chứng thực trong giấy tờ, văn bản đó thì số lượng giấy tờ, văn bản đã được chứng thực chữ ký là 01;

– (7) Đối với trường hợp chứng thực được thực hiện tại cơ quan thực hiện chứng thực thì ghi theo lệ phí; thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng thì ghi theo phí chứng thực.

2.3. Sổ Chứng thực chữ ký người dịch

 Số thứ tự/ số
chứng thực
Ngày, tháng, năm chứng thực Họ tên, số CMND/

Hộ chiếu của người yêu cầu chứng thực

Tên của giấy tờ, văn bản đã được dịch Dịch từ tiếng sang tiếng Họ tên, chức danh người ký
chứng thực
Số lượng bản dịch đã được chứng thực chữ ký Lệ phí Ghi chú
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)

2.4. Sổ chứng thực hợp đồng, giao dịch

Số thứ tự/ số

chứng thực

Ngày, tháng, năm chứng thực Họ tên, số CMND/

Hộ chiếu của người yêu cầu chứng thực

Tên hợp đồng, giao dịch được chứng thực Họ tên, chức danh người ký
chứng thực
Lệ phí chứng thực Ghi chú
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7)

PHẦN THỨ BA

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Giới thiệu một số nội dung cơ bản của Thông tư số 92/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008 về hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực

Tuy Chính phủ đã ban hành Nghị định số 23/2015/NĐ-CP thay thế Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, nhưng hiện nay, mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực vẫn căn cứ vào Thông tư số 92/2008/TTLP-BTC-BTP

1. Về phạm vi áp dụng

Lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực được áp dụng đối với việc cấp bản sao từ sổ gốc,chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.

Đối tượng nộp lệ phí là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài yêu cầu cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.

Cơ quan, tổ chức được thu lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực là cơ quan, tổ chức cóthẩm quyền cấp bản sao từ sổ gốc, Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Uỷ bannhân dân xã, phường, thị trấn.

2. Mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực

Mức thu: Mức thu lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực như sau:a) Cấp bản sao từ sổ gốc: không quá 3.000 đồng/bản; b) Chứng thực bản sao từ bản chính: không quá 2000 đồng/trang; từ trang thứ 3 trở lên thìmỗi trang thu không quá 1.000 đồng/trang, tối đa thu không quá 100.000 đồng/bản;c) Chứng thực chữ ký: không quá 10.000 đồng/trường hợp.Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định mức thu lệ phí cấp bảnsao, lệ phí chứng thực cho phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương, nhưng tối đa khôngquá mức thu quy định tại điểm a, điểm b và điểm c khoản này.

Chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực:

– Tổ chức, cá nhân khi yêu cầu cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính,chứng thực chữ ký phải nộp lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực. Khi thu lệ phí, cơ quan thu lệ phí phải lập và cấp biên lai thu cho đối tượng nộp lệ phí theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính về pháthành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế.

– Lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước. Cơ quan thực hiện thu lệ phí phải nộp đầy đủ, kịp thời số lệ phí thu được vào ngân sách nhà nước. Trongtrường hợp ủy quyền thu thì Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết địnhtỷ lệ phần trăm trích lại số lệ phí thu được cho đơn vị được ủy quyền thu lệ phí để trang trải chi phícho việc thu lệ phí theo chế độ quy định.

II. Giới thiệu một số nội dung cơ bản của Thông tư số 62/2013/TTLT-BTC-BTP ngày 13/5/2013 quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí chứng thực hợp đồng, giao dịch

Hiện nay, mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí chứng thực hợp đồng, giao dịch vẫn được thực hiện theo Thông tư số 62/2013/TTLT-BTC-BTP

1. Đối tượng áp dụng

Đối tượng áp dụng của Thông tư này là Tổ chức, cá nhân yêu cầu chứng thực hợp đồng, giao dịch tại Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã (ở các địa phương được phép thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật) phải nộp lệ phí theo quy định tại Thông tư này.

– Cơ quan thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch là cơ quan thu lệ phí.

2. Mức thu lệ phí (Điều 3)

Mức thu lệ phí chứng thực hợp đồng, giao dịch như sau:

– Mức thu lệ phí chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản được xác định theo giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch:

a) Mức thu lệ phí chứng thực đối với các hợp đồng, giao dịch sau đây được tính như sau:

– Chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất (tính trên giá trị quyền sử dụng đất);

– Chứng thực hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất (tính trên tổng giá trị quyền sử dụng đất và giá trị tài sản gắn liền với đất);

– Chứng thực văn bản thoả thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản (tính trên giá trị di sản);

– Chứng thực hợp đồng thế chấp tài sản (tính trên giá trị tài sản; trường hợp trong hợp đồng thế chấp tài sản có ghi giá trị khoản vay thấp hơn giá trị tài sản thế chấp thì tính trên giá trị khoản vay).

Số TT Giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch Mức thu

(đồng/trường hợp)

1 Dưới 50 triệu đồng 50.000
2 Từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng 100.000
3 Từ trên 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng 300.000
4 Từ trên 500 triệu đồng đến 1 tỷ đồng 500.000
5 Từ trên 1 tỷ đồng đến 2 tỷ đồng 1.000.000
6 Từ trên 2 tỷ đồng đến 3 tỷ đồng 1.200.000
7 Từ trên 3 tỷ đồng đến 4 tỷ đồng 1.500.000
8 Từ trên 4 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng 2.000.000
9 Từ trên 5 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng 2.500.000
10 Trên 10 tỷ đồng 3.000.000

b) Mức thu lệ phí đối với các việc chứng thực hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, thuê nhà ở (tính trên tổng số tiền thuê) được tính như sau:

Số TT Giá trị hợp đồng, giao dịch Mức thu

(đồng/trường hợp)

1 Dưới 50 triệu đồng 40.000
2 Từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng 80.000
3 Từ trên 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng 200.000
4 Từ trên 500 triệu đồng đến 1 tỷ đồng 400.000
5 Từ trên 1 tỷ đồng đến 2 tỷ đồng 800.000
6 Từ trên 2 tỷ đồng đến 3 tỷ đồng 1.000.000
7 Từ trên 3 tỷ đồng đến 4 tỷ đồng 1.200.000
8 Từ trên 4 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng 1.500.000
9 Từ trên 5 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng 1.700.000
10 Trên 10 tỷ đồng 2.000.000

c) Đối với các hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất, tài sản có giá thoả thuận cao hơn mức giá quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giá trị quyền sử dụng đất, giá trị tài sản tính lệ phí chứng thực được xác định theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng, giao dịch đó; trường hợp giá đất, giá tài sản do các bên thoả thuận thấp hơn mức giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định áp dụng tại thời điểm chứng thực thì giá trị tính lệ phí chứng thực được tính như sau: Giá trị quyền sử dụng đất, giá trị tài sản tính lệ phí = Diện tích đất, số lượng tài sản ghi trong hợp đồng, giao dịch (x) Giá đất, giá tài sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

– Mức thu lệ phí chứng thực hợp đồng, giao dịch không theo giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch được quy định như sau:

Số TT Loại việc Mức thu

(đồng/trường hợp)

1 Chứng thực hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp 40.000
2 Chứng thực hợp đồng bán đấu giá bất động sản 100.000
3 Chứng thực hợp đồng bảo lãnh 100.000
4 Chứng thực hợp đồng uỷ quyền 40.000
5 Chứng thực giấy uỷ quyền 20.000
6 Chứng thực sửa đổi, bổ sung hợp đồng, giao dịch 40.000
7 Chứng thực việc huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch 20.000
8 Chứng thực di chúc 40.000
9 Chứng thực văn bản từ chối nhận di sản 20.000

– Mức thu lệ phí chứng thực hợp đồng, giao dịch khác có giá trị dưới 50 triệu đồng là: 40.000 đồng/trường hợp.

3. Quản lý và sử dụng lệ phí (Điều 4)

Lệ phí chứng thực là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước. Cơ quan thu lệ phí nộp 100% (một trăm phần trăm) tổng số tiền lệ phí thu được vào ngân sách nhà nước theo chương, mục, tiểu mục của Mục lục ngân sách nhà nước hiện hành. Các khoản chi phí liên quan đến công tác chứng thực hợp đồng, giao dịch được ngân sách nhà nước cấp theo dự toán được duyệt hàng năm.

 III. Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 20/6/2014 về một số biện pháp chấn chỉnh tình trạng lạm dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện thủ tục hành chính.

Ngày 18 tháng 5 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký (sau đây gọi là Nghị định số 79/2007/NĐ-CP). Triển khai thi hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, trong những năm qua, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trên toàn quốc đã bố trí nguồn nhân lực, cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ được giao, đáp ứng cơ bản nhu cầu của cá nhân, tổ chức trong việc chứng thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản. Bản sao được chứng thực từ bản chính (sau đây gọi là bản sao có chứng thực) có giá trị pháp lý sử dụng thay cho bản chính, do đó phần nào đã tạo thuận lợi cho người dân, tạo sự yên tâm cho cơ quan, tổ chức khi tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính. Theo quy định tại Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP thì: “1. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao được chứng thực từ bản chính không được yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu. 2. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao không có chứng thực có quyền yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu. Người đối chiếu phải ký xác nhận vào bản sao và chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao so với bản chính”. Thực hiện quy định này, một số cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến thủ tục hành chính đã quy định theo hướng, cá nhân, tổ chức có quyền lựa chọn việc nộp bản sao từ sổ gốc, bản sao có chứng thực hoặc nộp bản sao không có chứng thực xuất trình kèm bản chính để đối chiếu.

Tuy nhiên, trên thực tế, để đáp ứng yêu cầu thực hiện thủ tục hành chính, đa số các cá nhân, tổ chức vẫn phải nộp bản sao có chứng thực giấy tờ, văn bản. Chính vì vậy, nhu cầu chứng thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản của cá nhân, tổ chức ngày càng gia tăng, từ đó dẫn đến tình trạng sử dụng bản sao có chứng thực đã vượt quá sự cần thiết và trở thành hiện tượng “lạm dụng” bản sao có chứng thực. Qua tổng kết công tác chứng thực từ năm 2007 đến nay cho thấy, mỗi năm, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trên toàn quốc đã thực hiện chứng thực hàng trăm triệu bản sao. Việc làm này không những gây phiền hà, tốn kém cho người dân, lãng phí cho xã hội mà còn tạo nên áp lực, quá tải đối với Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trong công tác chứng thực.

Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân cơ bản sau đây: Một số cá nhân, tổ chức nhận thức chưa đầy đủ về việc sử dụng bản sao nói chung và bản sao có chứng thực nói riêng khi giải quyết thủ tục hành chính theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP; các văn bản quy phạm pháp luật, cá biệt có cả văn bản hành chính do cơ quan, tổ chức trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính ban hành (như quyết định, công văn, thông báo…) quy định về giấy tờ phải nộp trong thành phần hồ sơ bắt buộc phải là bản sao có chứng thực mà không quy định theo hướng, cá nhân, tổ chức có quyền lựa chọn nộp bản sao từ sổ gốc, bản sao có chứng thực hoặc nộp bản sao xuất trình kèm bản chính để đối chiếu theo quy định tại Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP; một bộ phận công chức, viên chức khi tiếp nhận hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính do tâm lý “ngại” đối chiếu, “sợ trách nhiệm” nên đã yêu cầu cá nhân, tổ chức nộp bản sao từ sổ gốc, bản sao có chứng thực mà không tiếp nhận bản sao để tự đối chiếu với bản chính.

Để chấn chỉnh tình trạng lạm dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản, giảm chi phí cho cá nhân, tổ chức khi thực hiện thủ tục hành chính, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:

1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm:

a) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến nội dung quy định tại Điều 6 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về quyền của các cá nhân, tổ chức khi trực tiếp thực hiện thủ tục hành chính thì các giấy tờ trong thành phần hồ sơ có thể là bản sao từ sổ gốc, bản sao có chứng thực hoặc nộp bản sao xuất trình kèm bản chính để đối chiếu;

b) Chỉ đạo việc quán triệt thực hiện nghiêm túc quy định tại Điều 6 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành chính. Theo đó, khi cá nhân, tổ chức trực tiếp thực hiện thủ tục hành chính nộp bản sao từ sổ gốc, bản sao có chứng thực thì không được yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu; trường hợp nộp bản sao không có chứng thực và xuất trình kèm bản chính thì công chức, viên chức tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm tự kiểm tra, đối chiếu bản sao với bản chính và chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao so với bản chính mà không yêu cầu cá nhân, tổ chức nộp bản sao có chứng thực;

c) Chỉ đạo việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc sửa đổi, bổ sung theo hướng: Cá nhân, tổ chức trực tiếp thực hiện thủ tục hành chính tại cơ quan, tổ chức có quyền lựa chọn nộp bản sao từ sổ gốc, bản sao có chứng thực hoặc nộp bản sao xuất trình kèm bản chính để đối chiếu; hoàn thành trước ngày 31 tháng 3 năm 2015;

d) Chỉ đạo các cơ quan, tổ chức trực thuộc có thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính rà soát những văn bản hành chính do cơ quan, tổ chức ban hành dưới hình thức quyết định, thông báo, công văn và các hình thức văn bản khác, phát hiện những quy định về thủ tục hành chính trái với quy định tại Điều 6 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP; tiến hành sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới thay thế theo thẩm quyền cho phù hợp; hoàn thành trước ngày 31 tháng 3 năm 2015.

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo các sở, ban, ngành trong địa phương:

a) Tổ chức phổ biến, tuyên truyền, quán triệt nội dung quy định tại Điều 6 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP theo tinh thần nêu tại điểm a, điểm b Khoản 1 của Chỉ thị này;

b) Tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp ban hành hoặc những văn bản do cơ quan, tổ chức trực thuộc ban hành dưới hình thức quyết định, thông báo, công văn và các hình thức văn bản khác, phát hiện những quy định về thủ tục hành chính trái với quy định tại Điều 6 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền cho phù hợp, hoàn thành trước ngày 31 tháng 3 năm 2015;

c) Tăng cường kiểm tra cách thức tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chấn chỉnh kịp thời tình trạng lạm dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực giấy tờ, văn bản trái với quy định tại Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP;

d) Bố trí đủ nguồn nhân lực, cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu sao giấy tờ, văn bản của cá nhân, tổ chức khi thực hiện thủ tục hành chính. Thường xuyên quan tâm công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, giáo dục ý thức, trách nhiệm của công chức, viên chức trực tiếp tiếp nhận hồ sơ, giải quyết thủ tục hành chính.

3. Tổ chức thực hiện:

a) Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quán triệt nội dung của Chỉ thị này tới các cơ quan, tổ chức trực thuộc; có văn bản chỉ đạo cụ thể và thường xuyên kiểm tra các cơ quan, tổ chức trực thuộc trong việc triển khai thực hiện Chỉ thị, sớm khắc phục tình trạng lạm dụng yêu cầu bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện thủ tục hành chính.

b) Bộ Tư pháp có trách nhiệm:

– Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện Chỉ thị này; tổng hợp đề xuất của các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

– Nâng cao chất lượng công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, gắn kết công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật với công tác kiểm soát thủ tục hành chính, bảo đảm các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thủ tục hành chính phù hợp với quy định tại Điều 6 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP;

– Chỉ đạo tuyên truyền, phổ biến nội dung của Chỉ thị này tới tất cả cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổng kết, đánh giá tình hình triển khai, báo cáo kết quả thực hiện Chỉ thị gửi Bộ Tư pháp trước ngày 30 tháng 4 năm 2015 để Bộ Tư pháp tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ./.

 

Phân biệt rõ với hoạt động công chứng: Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch (khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng (sửa đổi).,

By admin

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *