GIỚI THIỆU LUẬT ĐẦU TƯ 2020

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT | TỪ VIẾT TẮT | TỪ ĐẦY ĐỦ |
BCC | Hợp đồng hợp tác kinh doanh | |
BKHĐT | Bộ Kế hoạch và Đầu tư | |
BOT | Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao | |
BT | Hợp đồng xây dựng – chuyển giao | |
BTO | Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh | |
CTCP | Công ty cổ phần | |
GCNĐKĐT | Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư | |
GCNĐT | Giấy chứng nhận đầu tư | |
PPP | Hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công – tư | |
TNHH | Trách nhiệm hữu hạn | |
UBND | Ủy ban nhân dân |
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, HÌNH THỨC, QUY TRÌNH VÀ CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP ĐẦU TƯ
1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư là một khái niệm có từ khá sớm, đã từng xuất hiện trong bộ cổ luật Hamurabi (khoảng 1700 năm Trước Công Nguyên). Bộ luật này có quy định về hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư, và tạo ra một phương tiện cho việc cầm cố tài sản bằng việc pháp điển hóa quyền của chủ nợ và con nợ đối với đất đai bị cầm cố (như vậy, hoạt động đầu tư ở đây được hiểu là giá trị các quyền tài sản mà chủ nợ có được đối với tài sản của bên vay, vốn là tài sản cầm cố thế chấp để đảm bảo cho khoản vay).
Vào đầu những năm 1900, những người mua cổ phần, trái phiếu và các chứng khoán khác được mô tả trên các phương tiện truyền thông hay trong giới học thuật và doanh thương là những kẻ “đầu cơ”. Đến những năm 1950, thuật ngữ đầu tư bắt đầu được dùng phổ biến để chỉ những hoạt động mua bán, trao đổi với khoản đầu vào thấp hơn đầu ra và với mục đích là tạo ra lợi ích thương mại trên thương trường.
Trong nền kinh tế thị trường, khái niệm đầu tư được sử dụng tương đối rộng rãi và phổ biến. Đầu tư cũng là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống nói chung và trong nền kinh tế nói riêng. Với tầm quan trọng của mình, đầu tư được xem xét ở rất nhiều góc độ khác nhau. Hoạt động đầu tư thực chất là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung.
Dưới góc độ kinh tế, đầu tư được xem là việc sử dụng các điều kiện hay nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế – xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã được sử dụng để đạt được các kết quả đó. Các nguồn lực được sử dụng để đầu tư bao gồm nhân lực, vật lực, tài nguyên thiên nhiên, trí tuệ, v…v… Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể tiến hành hoạt động đầu tư có thể là các tổ chức hoặc các cá nhân, thực hiện hoạt động này vì mục đích sinh lợi hoặc đạt được các kết quả xác định như: tăng sản vật, tăng các giá trị vật chất (tiền, tài sản…) hoặc để gia tăng nguồn nhân lực cho sự phát triển ổn định lâu dài.
Dưới góc độ chính trị – xã hội, đầu tư được hiểu là “việc bỏ nhân lực, tài lực, vật lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế – xã hội”. Với khái niệm này, đầu tư được hiểu một cách rất rộng rãi. Ở góc độ xã hội, một ví dụ điển hình là bố mẹ “đầu tư” tiền của, công sức để con cái học hành nên người hay nhà nước đầu tư, chi ngân sách cho “giáo dục”, đầu tư vào “con người” với mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Như vậy, xem xét đầu tư ở góc độ chính trị – xã hội, có thể thấy hoạt động đầu tư khá đa dạng, là việc lấy những gì đang có làm nền tảng tạo nên sự phát triển cho tương lai.
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực.
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế – xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Nói tóm lại, có rất nhiều khái niệm về đầu tư được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy vậy, ở góc độ tổng quát, khái niệm về đầu tư được đưa ra một cách tương đối như sau: “đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản xuất kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh tế, xã hội”.
Dưới góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư, bao gồm các tổ chức cá nhân, bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận hoặc lợi ích về kinh tế, xã hội. Hoạt động đầu tư có thể có thể có tính chất kinh doanh hoặc không vì mục đích kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý cũng như trong các thực tiễn xây dựng chính sách, pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu được đề cập là hoạt động đầu tư, kinh doanh với bản chất là “sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận trong tương lai”.
2. Các đặc điểm của đầu tư
Từ mỗi góc độ tiếp cận khác nhau sẽ có các quan niệm khác nhau về đầu tư, nhưng một quan niệm hoàn chỉnh về đầu tư phải bao gồm các đặc trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, công việc đầu tư đòi hỏi phải bỏ vốn ban đầu: Yếu tố then chốt, đầu tiên của đầu tư chính là khoản vốn mà nhà đầu tư phải bỏ ra để thực hiện hoạt động sinh lợi của mình. Vốn cho hoạt động đầu tư rất đa dạng, có thể bằng tiền mặt, bằng hiện vật khác như vàng, đá quý, máy móc thiết bị…Có khi vốn bỏ ra ban đầu là sản phẩm trí tuệ vô hình như phương pháp quản lý kinh doanh, bí mật công nghệ…nhưng có thể định lượng thành các giá trị thương mại nhất định.
Thứ hai, đầu tư luôn gắn liền với rủi ro, mạo hiểm: đây cũng là điểm đặc thù của hoạt động đầu tư mặc dù không phải lúc nào nhà đầu tư cũng nhận thức được hết các rủi ro sẽ xảy ra khi tiến hành đầu tư. Do vậy các nhà đầu tư phải nhìn nhận trước những khó khăn, phân tích, đánh giá và có biện pháp đối phó, phòng ngừa với rủi ro. Một trong các nguyên tắc cơ bản của đầu tư là rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
Thứ ba, mục tiêu của đầu tư là lợi nhuận và hiệu quả: Khi tiến hành hoạt động đầu tư, thông thường nhà đầu tư kì vọng vào kết quả thu được từ hoạt động đó. Mục đích cuối cùng cần nhắm tới của hầu hết các hoạt động đầu tư là hiệu quả cùng với kết quả thu được qua việc đầu tư một cách có hiệu quả đó. Nhưng ở những vị trí khác nhau, người ta cũng nhìn nhận vấn đề hiệu quả không giống nhau. Các doanh nghiêp là chủ đầu tư thường chỉ thiên về hiệu quả kinh tế, tối đa hoá lợi nhuận. Còn đối với nhà nước thì hiệu quả mong muốn là phát triển kinh tế phải gắn liền với lợi ích xã hội. Trong nhiều trường hợp lợi ích xã hội được đặt lên hàng đầu.
3. Hình thức đầu tư
Ở góc độ phổ biến nhất, đầu tư được phân làm hai hình thức gồm (1) Đầu tư trực tiếp và (2) Đầu tư gián tiếp.
3.1. Đầu tư trực tiếp
Đầu tư trực tiếp là sự đầu tư thông qua sản xuất, cung cấp dịch vụ, buôn bán tại nước nhận đầu tư. Hình thức đầu tư này thường dẫn đến sự thành lập một pháp nhân riêng như công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài hay chi nhánh công ty nước ngoài. Đầu tư trực tiếp góp phần làm tăng tổng sản phẩm quốc nội, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và phương thức quản lý, kinh doanh tiên tiến, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề việc làm tại nước nhận đầu tư. Các loại hình đầu tư trực tiếp phổ biến bao gồm:
a) Đầu tư thông qua hợp đồng
Đầu tư thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh (“Business Cooperation Contract” hay “BCC”) là loại hình đầu tư mà nhà đầu tư thực hiện thông qua một cơ chế hợp tác duy nhất: hợp đồng. Trong hợp đồng này, các bên liên quan (các nhà đầu tư) thỏa thuận cụ thể về mục tiêu, vốn đầu tư, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, phân chia lợi nhuận, hạn chế rủi ro, cách thức ra quyết định…
BCC là một mô hình đầu tư không hoàn thiện do các nhà đầu tư chỉ có thể ràng buộc trách nhiệm của mình qua một hợp đồng chứ không phải là một pháp nhân có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, chẳng hạn như một công ty. Do đầu tư thông qua BCC không tạo ra một pháp nhân, nên các bên tham gia khó có thể thảo luận và quản lý công việc đầu tư một cách hiệu quả, giải quyết được những xung đột hay giao kết với các bên thứ ba để triển khai dự án đầu tư nếu không định ra được một cơ chế phối hợp hoàn chỉnh.
Ngoài hình thức đầu tư BCC, nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng có thể lựa chọn các mô hình đầu tư khác thông qua hợp đồng để thực hiện dự án của mình, bao gồm: Hợp đồng xây dựng, kinh doanh, chuyển giao (“BOT”), Hợp đồng xây dựng, chuyển giao, kinh doanh (“BTO”) hoặc Hợp đồng xây dựng, chuyển giao (“BT”). Một mô hình đầu tư thông qua hợp đồng mới phát triển trên thế giới trong thời gian gần đây là đầu tư theo hình thức hợp đồng đối tác công – tư (“PPP”). Theo mô hình này, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án ký kết hợp đồng PPP với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện dự án đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công. Các hình thức đầu tư thông qua hợp đồng đều có thể coi là hình thức “đầu tư có điều kiện” và chủ yếu được thực hiện trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc các lĩnh vực yêu cầu vốn lớn hoặc yêu cầu giải pháp, công nghệ mà nhà đầu tư Việt Nam chưa thể đáp ứng được.
b)Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
Đi theo mô hình này, nhà đầu tư sẽ bỏ vốn để thành lập một tổ chức kinh tế mà thông qua đó, các hoạt động đầu tư được thực hiện và được quản lý tốt hơn. Tổ chức kinh tế đứng ra triển khai hoạt động đầu tư thường là một doanh nghiệp do các nhà đầu tư thỏa thuận lập ra. Toàn bộ hoạt động đầu tư và quản lý hiệu quả các hoạt động đó đều được thực hiện qua doanh nghiệp mà nhà đầu tư thành lập. Tổ chức kinh tế được thành lập để tiến hành các hoạt động đầu tư có thể là doanh nghiệp liên kết giữa nhiều nhà đầu tư khác nhau, bao gồm nhà đầu tư trong và ngoài nước, thường gọi là liên doanh; nhưng cũng có trường hợp các nhà đầu tư có cùng thành phần như nhau, hoặc là toàn bộ nhà đầu tư trong nước hay toàn bộ nhà đầu tư nước ngoài. Trong những trường hợp này, họ có thể thành lập các công ty 100% vốn trong nước hoặc nước ngoài để thực hiện triển khai dự án của mình.
Ưu điểm của hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế là các nhà đầu tư có cơ chế thảo luận rất rõ ràng (thông qua các cơ quan quản lý nội bộ của tổ chức nư ban điều hành, hội đồng quản trị, đại hội đồng cổ đông…). Ngoài ra, thông qua tổ chức kinh tế, là doanh nghiệp, họ có phương tiện thực hiện hoạt động đầu tư một cách thuận tiện, có cơ chế để kiểm soát chi phí và phân bổ lợi nhuận cho các nhà đầu tư dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, việc quản lý hoạt động đầu tư, với một doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn nhiều so với chỉ một hợp đồng, như mô hình đầu tư BCC.
c)Đầu tư phát triển kinh doanh
Đầu tư phát triển kinh doanh là hoạt động đầu tư thực hiện thông qua mở rộng quy mô, tăng công suất, cải tiến năng lực kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm ô nhiễm môi trường. Các hoạt động đầu tư này có thể diễn ra trong nội bộ tổ chức kinh tế (vốn là công cụ của nhà đầu tư) và là sự kế thừa, phát huy những cái đã có sẵn để nâng tầm phát triển về sau.
d)Đầu tư thông qua mua cổ phần, mua phần vốn góp và sáp nhập
Hình thức đầu tư này không còn quá mới mẻ trong nền kinh tế thị trường khi các doanh nghiệp hay các dự án đầu tư được coi là hàng hóa có thể trao đi đổi lại nhằm tạo ra các giá trị thặng dư. Nhà đầu tư có thể thực hiện hoạt động đầu tư thông qua việc mua lại phần vốn góp, mua cổ phần tại các công ty, các chi nhánh tại Việt Nam để thâu tóm, quản lý và để thu lợi trong một kế hoạch dài hạn. Nhà đầu tư cũng có thể thực hiện hoạt động đầu tư bằng việc sáp nhập, mua lại các công ty, chi nhánh tại Việt Nam. Việc sáp nhập doanh nghiệp cũng được quy định tại Luật doanh nghiệp hiện hành và được hiểu là một hoặc một số công ty (công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập. Sáp nhập doanh nghiệp là một hình thức đầu tư không còn quá xa lạ tại Việt Nam khi các công ty lớn thực hiện mở rộng mạng lưới, thị trường và khách hàng bằng cách nhận sáp nhập hoặc mua lại các công ty mục tiêu tiềm năng. Ở chiều ngược lại, các công ty tiềm năng cũng có điều kiện để trở thành một phần của công ty nhận sáp nhập.
3.2. Đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp là sự đầu tư thông qua việc buôn bán cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các giấy tờ có giá trị, gọi chung là chứng khoán. Hình thức đầu tư này không dẫn đến việc thành lập pháp nhân riêng và mang tính đầu cơ nên có thể thu lãi rất lớn thông qua sự biến động giá chứng khoán (điều này lại liên quan đến nhiều yếu tố khác như tình hình chính trị, phát triển kinh tế, chính sách điều hành vĩ mô, v.v…), nhưng cũng chính vì thế mà có thể phải chịu những rủi ro khó lường trước.
Đối với nước nhận đầu tư, hình thức đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán, thị trường tài chính nội địa góp phần giải quyết sự khan hiếm vốn, nhưng khi các nhà đầu tư đồng loạt rút đi (bằng cách bán lại chứng khoán) sẽ dễ dẫn đến những biến động trên thị trường tiền tệ, ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế. Các hoạt động đầu tư gián tiếp điển hình bao gồm: (i) mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá trị khác, (ii) thực hiện đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và (iii) thực hiện đầu tư thông qua các định chế tài chính trung gian khác.
4. Quy trình, thủ tục đầu tư
Nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài muốn triển khai các hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư phải thực hiện đầy đủ các quy trình, thủ tục đầu tư theo luật pháp của quốc gia này. Tùy vào pháp luật từng quốc gia, nhà đầu tư phải trải qua tuần tự nhiều công đoạn để đưa dự án đầu tư đi vào hoạt động chính thức. Ở góc độ khái quát, các trình tự, thủ tục sau đây cần được thực hiện:
4.1. Chọn địa điểm
Điều quan trọng đầu tiên cho nhà đầu tư khi tiến hành triển khai dự án là phải có địa điểm đầu tư. Để có địa điểm đầu tư phù hợp, nhà đầu tư phải tiến hành khảo sát địa điểm theo các tiêu chí đánh giá của mình. Việc chọn địa điểm được thực hiện thông qua trao đổi hoặc giao kết hợp đồng với người sở hữu địa điểm. Trong nhiều trường hợp, cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư sẽ giới thiệu địa điểm và làm thủ tục cho phép nhà đầu tư thuê địa điểm hoặc giao đất, giao địa điểm để nhà đầu tư thực hiện dự án trên cơ sở thu tiền thuê địa điểm hoặc tiền sử dụng đất. Ở các dự án khác, nhà đầu tư chỉ cần thuê địa điểm làm trụ sở để thực hiện việc quản lý điều hành các hoạt động đầu tư kinh doanh của mình.
4.2. Xin cấp phép
Sau khi đã lựa chọn được địa điểm đầu tư phù hợp, nhà đầu tư phải trải qua một thủ tục bắt buộc là xin cấp giấy phép cho dự án đầu tư của mình. Thủ tục cấp phép được áp dụng cho hầu hết các dự án đầu tư, trừ một số trường hơp theo luật định nhà đầu tư được miễn xin giấy phép. Để xin cấp phép, nhà đầu tư phải tiến hành lập dự án đầu tư, tức là chi tiết hóa các thông số của dự án và tính toán mọi khả năng lỗ, lãi, khả năng thu hồi vốn cũng như tính khả thi của dự án. Thông thường có hai vấn đề lớn nhất mà nhà đầu tư phải quan tâm ở giai đoạn này, bao gồm:
a) Chứng minh năng lực tài chính
Để được cấp phép, nhà đầu tư phải chứng minh được năng lực tài chính của mình, ít nhất là đủ để thực hiện dự án. Chứng minh năng lực tài chính được thực hiện thông qua việc nhà đầu tư nộp các báo cáo tài chính (thông thường là trong hai năm gần nhất) với thời điểm đầu tư. Báo cáo tài chính phải cho kết quả kinh doanh tốt với lượng vốn sẵn có để thực hiện hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư cũng có thể chứng minh năng lực tài chính của mình bằng việc cung cấp các văn bản xác nhận số dư tiền gửi ngân hàng hay văn bản cấp vốn của một ngân hàng hay một định chế tài chính cam kết hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án.
b)Chứng minh năng lực quản trị
Ngoài việc phải chứng minh năng lực tài chính, nhà đầu tư cũng thường phải chứng minh năng lực quản trị phù hợp để được cấp phép. Năng lực quản trị thể hiện qua các kinh nghiệm thực hiện các dự án tương tự hay khả năng quản trị kinh doanh, nguồn nhân lực dự kiến để thực hiện dự án. Đôi khi nhà đầu tư cũng phải chứng minh năng lực chuyên môn, bằng cấp và kinh nghiệm của người quản lý dự án để đảm bảo dự án chắc chắn sẽ được thực hiện một cách phù hợp.
4.3. Các thủ tục khác
Sau khi được cấp phép đầu tư dự án, tùy thuộc vào từng trường hợp, nhà đầu tư còn phải thực hiện một số quy trình, thủ tục đầu tư bổ sung để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho dự án. Có một số thủ tục phải được thực hiện sau khi cấp phép nhưng nhìn chung hai quy trình quan trọng phổ biến là (i) Xin cấp phép về môi trường và (ii) Xin cấp phép về xây dựng.
a) Xin cấp phép về môi trường
Với các dự án có ảnh hưởng đến môi trường, pháp luật nước tiếp nhận đầu tư thường yêu cầu nhà đầu tư giải trình về việc xử lý chất thải, đảm bảo vệ sinh môi trường nơi thực hiện dự án đầu tư, đảm bảo môi trường xung quanh dự án được an toàn, không phá vỡ cảnh quan và không gây hại đến môi trường xung quanh. Nhà đầu tư có thể phải trải qua một thủ tục bắt buộc là lập và giải trình báo cáo đánh giá tác động môi trường để được các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường chấp thuận.
b)Xin cấp phép về xây dựng
Trong nhiều dự án đầu tư, việc xây dựng cơ sở hạ tầng như nhà máy, nhà xưởng sản xuất, khu văn phòng và các tiện ích khác là bắt buộc. Nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục xin phép các cơ quan quản lý có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch xây dựng và xin cấp giấy phép xây dựng. Việc xây dựng phải phù hợp với quy hoạch của địa phương đã được phê duyệt.
c)Thủ tục quyền sử dụng đất
Nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài muốn có địa điểm rộng, đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình có thể làm việc với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương để làm các thủ tục liên quan đến quyền sử dụng đất. Cụ thể, nhà đầu tư có thể giải trình về nhu cầu sử dụng đất cho dự án và thực hiện đăng ký giới thiệu địa điểm. Căn cứ vào yêu cầu của nhà đầu tư, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ giới thiệu địa điểm phù hợp với nguyện vọng của nhà đầu tư. Sau khi được giới thiệu địa điểm, nhà đầu tư sẽ thực hiện các thủ tục pháp lý để thuê đất hoặc được giao đất từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hợp đồng thuê đất hoặc quyết định giao đất sẽ là cơ sở để nhà đầu tư thực hiện tiếp thủ tục pháp lý là xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bảng mô phỏng quy trình, thủ tục đầu tư dự án thông thường
5. Các loại hình doanh nghiệp
Ngoại trừ các hình thức đầu tư thông qua hợp đồng, các hình thức đầu tư phát triển kinh doanh, góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp khác hay đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán, hình thức đầu tư trực tiếp sử dụng công cụ đầu tư là một tổ chức kinh tế đặt ra yêu cầu cho nhà đầu tư là phải lựa chọn một loại hình doanh nghiệp phù hợp. Tùy vào tính chất sở hữu vốn, quy mô dự án mà nhà đầu tư có các lựa chọn mô hình doanh nghiệp khác nhau. Hai loại hình doanh nghiệp được nhà đầu tư lựa chọn nhiều nhất tại Việt Nam hiện nay là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Mặc dù vậy các loại hình doanh nghiệp khác cũng thể hiện được đặc tính riêng của mình, và phù hợp với từng đối tượng nhà đầu tư.
5.1. Công ty trách nhiệm hữu hạn
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, công ty trách nhiệm hữu hạn (“công ty TNHH”) là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù Luật đầu tư không đề cập đến loại hình doanh nghiệp vì vấn đề này được đề cấp trong Luật doanh nghiệp nhưng để thực hiện hoạt động đầu tư, nhà đầu tư phải cân nhắc lựa chọn pháp nhân kinh doanh phù hợp với dự án của mình. Pháp luật Việt Nam quy định có hai loại hình công ty TNHH là công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Công ty TNHH có các đặc điểm như sau:
(i) Công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Chủ sở hữu công ty và công ty là hai thực thể pháp lý riêng biệt. Trước pháp luật, công ty là pháp nhân, chủ sở hữu công ty là thể nhân với các quyền và nghĩa vụ tương ứng với quyền sở hữu công ty;
(ii) Công ty chịu TNHH, tức là các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn cam kết góp vào công ty;
(iii) Công ty TNHH không được quyền phát hành cổ phần để huy động vốn;
(iv) Với bản chất là công ty dạng “đóng”, việc chuyển nhượng vốn góp của thành viên công ty TNHH bị hạn chế, các thành viên công ty TNHH khi muốn chuyển nhượng vốn góp trước hết phải ưu tiên chuyển nhượng cho các thành viên khác của công ty;
và (v) Trên bảng hiệu hóa đơn chứng từ và các giấy tờ giao dịch khác của công ty phải ghi rõ tên công ty kèm theo.
a) Công ty TNHH hai thành viên trở lên
Công ty TNHH hai thành viên trở lên là doanh nghiệp trong đó: (i) Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá 50; (ii) Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp; và (iii) Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo trình tự, thủ tục nhất định.
Công ty TNHH hai thành viên trở lên có cơ cấu tổ chức khá hoàn chỉnh, cơ chế ra quyết định khá chặt chẽ và thường được nhóm các nhà đầu tư (thường là từ hai trở lên) lựa chọn. Công ty TNHH hai thành viên trở lên cho phép các chủ đầu tư đều là đồng chủ sở hữu công ty.
b) Công ty TNHH một thành viên
Về mặt khái niệm và đặc điểm, công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty TNHH một thành viên cũng có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và không được quyền phát hành cổ phần.
Về cơ bản, quy định về công ty TNHH một thành viên trong Luật Doanh nghiệp 2014 cũng như các luật cũ trước đây đều giản lược hơn nhiều so với quy định về công ty TNHH hai thành viên trở lên do tính chất sở hữu và cơ cấu tổ chức gọn nhẹ của loại hình doanh nghiệp này. Công ty TNHH một thành viên rất phù hợp với nhà đầu tư nước ngoài muốn sở hữu 100% công ty con tại Việt Nam và nắm quyền chủ sở hữu duy nhất đối với công ty và dự án mà họ thực hiện tại Việt Nam.
5.2. Công ty cổ phần
Không giống với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần (“CTCP”) là loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn, vốn sở hữu cao, có cơ cấu quản lý và vận hành khá phức tạp. Xét về bản chất, CTCP là doanh nghiệp, trong đó: (i) vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; (ii) cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; (iii) cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; (iv) cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, ngoại trừ một số trường hợp hạn chế nhất định; CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và (v) CTCP có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn.
5.3. Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp không mấy phổ biến tại Việt Nam. Về mặt khái niệm và đặc điểm, công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: (i) phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (thành viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn; (ii) thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; (iii) thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Với những đặc thù kể trên, công ty hợp danh thường được thành lập bởi nhóm cá nhân, hay những nhà đầu tư có liên hệ chặt chẽ và rất gần gũi, tin tưởng lẫn nhau. Các công ty lựa chọn mô hình hợp danh, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, chủ yếu là các công ty luật. Thực chất thì đây là loại hình doanh nghiệp hỗn hợp vừa chịu trách nhiệm vô hạn (thành viên hợp danh) vừa chịu trách nhiệm hữu hạn (với các thành viên góp vốn).
5.4. Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là một hình thức “công ty không đầy đủ”. Sở dĩ nói không đầy đủ là vì dù hoạt động như một công ty nhưng doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp lý, không có sự tách bạch về tài sản của chủ doanh nghiệp với tài sản của chính doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp tư nhân thường có mô hình kinh doanh nhỏ lẻ, được phát triển từ các hộ kinh doanh. Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014, Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh. Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty TNHH hoặc công ty cổ phần. Mô hình doanh nghiệp tư nhân chỉ phù hợp với những hộ gia đình hay những cá nhân kinh doanh nhỏ lẻ, những nhà đầu tư trong nước.
5.5. Hợp tác xã
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật Hợp tác xã. Đây là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.
Đại hội xã viên có quyền quyết định cao nhất của hợp tác xã. Ban quản trị hợp tác xã là bộ máy quản lý hợp tác xã do đại hội xã viên bầu trực tiếp, gồm Trưởng ban quản trị và các thành viên khác. Số lượng thành viên Ban quản trị do Điều lệ hợp tác xã quy định. Ban kiểm soát là bộ máy giám sát và kiểm tra mọi hoạt động của hợp tác xã theo đúng pháp luật và Điều lệ hợp tác xã, do Đại hội xã viên bầu trực tiếp. Cũng giống như mô hình doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã phù hợp với mô hình đầu tư và nguồn vốn kinh doanh vừa và nhỏ, là loại hình doanh nghiệp chủ yếu được các nhà đầu tư nhỏ lẻ trong nước lựa chọn.
II. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM
Thực tế, khái niệm về đầu tư và khung pháp luật về hoạt động đầu tư của Việt Nam mới chỉ xuất hiện sau thời điểm đất nước thống nhất năm 1975, đặc biệt là trong giai đoạn phải đặt ra yêu cầu xây dựng nền kinh tế thời bình sau chiến tranh. Đến năm 1986, khi Việt Nam thực hiện quá trình đổi mới, mở cửa nền kinh tế và nhất là đến đầu những năm 1990 khi đất nước đã khôi phục về cơ bản tầng lớp tư thương, thì yêu cầu xây dựng hành lang pháp lý về đầu tư, kinh doanh mới được chú trọng triệt để. Tuy nhiên quá trình xây dựng khung pháp lý về đầu tư kinh doanh là một quá trình kéo dài tới nay đã gần 30 năm, với nhiều đợt chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện.
1. Khái niệm pháp luật đầu tư
Pháp luật đầu tư là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng liên quan đến các khoản vốn bắt nguồn từ Việt Nam. Trong hệ thống pháp luật về kinh doanh thương mại, pháp luật đầu tư có vị trí rất quan trọng, là công cụ pháp lý hữu hiệu, thúc đẩy các hoạt động đầu tư cả trong và ngoài nước, nhằm thu hút các nguồn vốn, tạo công ăn việc làm, góp phần phát triển nền kinh tế – xã hội.
Pháp luật đầu tư có vị trí quan trọng trong hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh, thương mại nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng. Từ Luật đầu tư, có thể mở rộng khái niệm theo chiều dọc và theo chiều ngang. Theo chiều dọc, pháp luật về đầu tư bao gồm các điều khoản trong hiến pháp quy định về các hoạt động đầu tư, Luật đầu tư do Quốc hội thông qua và các văn bản dưới luật do Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương ban hành để cụ thể hóa các quy định của Luật đầu tư.[1]
Theo chiều ngang, pháp luật về đầu tư bao gồm các văn bản pháp luật về các lĩnh vực đối nội và đối ngoại khác áp dụng cho cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, trong đó có các quy định về những vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư như đất đai (Luật đất đai), thuế (các loại Luật thuế), ngoại hối (các quy định pháp luật về ngoại hối), hoặc các lĩnh vực kinh tế xã hội liên quan đến hoạt động đầu tư như ngân hàng (Luật các tổ chức tín dụng), giáo dục (Luật giáo dục) .v..v…
Theo quá trình xây dựng và phát triển, trải qua nhiều thời kỳ trong lịch sử, có nhiều Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế nhau. Toàn bộ các văn bản đó cũng nằm trong khái niệm pháp luật về đầu tư cần được nghiên cứu. Tuy nhiên, ở góc độ khái quát nhất, luật đầu tư là tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện và quản lý hoạt động đầu tư kinh doanh.
2. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật đầu tư tại Việt nam
Cần phải nhìn nhận thực tế là nền kinh tế Việt Nam trước năm 1975 là nền kinh tế khép kín, mang tính chất “tự cung tự cấp” với sự viện trợ rất lớn từ các nước xã hội chủ nghĩa. Với tình trạng chiến tranh thường trực, các hoạt động kinh doanh, thương mại và đặc biệt là “đầu tư” hầu như không diễn ra trong giai đoạn này, vì vậy chuyên đề này chủ yếu tập trung vào quá trình xây dựng pháp luật đầu tư của Việt Nam chỉ cho giai đoạn từ 1975 cho đến nay.
a) Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977
Sau năm 1975 Việt Nam chuyển sang giai đoạn củng cố và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp thực sự cản trở hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại của cả nước, kéo theo tình trạng yếu kém, trì trệ trong suốt một thời gian dài.
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng cộng sản lần thứ IV năm 1976 khẳng định “việc đẩy mạnh quan hệ phân chia và hợp tác song phương trong lĩnh vực kinh tế và phát triển các mối quan hệ kinh tế với các nước khác có một vai trò vô cùng quan trọng”. Ngày 18/04/1977, Chính phủ đã ban hành Nghị định 115/CP kèm theo Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, một tín hiệu cho quá trình giao thương và làm bạn với các nước trên thế giới, đồng thời mở ra thời kì đổi mới của Việt Nam sau chiến tranh.
Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977 mặc dù đặt nền móng sơ khai cho hành lang pháp lý về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhưng ở thời điểm ra đời còn khá sơ lược, chỉ tập trung quy định về một số vấn đề cơ bản nhất cho hoạt động đầu tư nước ngoài bao gồm: quy trình góp vốn đầu tư, hình thức và lĩnh vực đầu tư, các loại thuế và thời hạn đầu tư. Theo quy định của điều lệ, bên nước ngoài được phép đầu tư tại Việt Nam có thể là “xí nghiệp, công ty, tổ chức tư nhân, tổ chức nhà nước, tổ chức quốc tế hoặc từng cá nhân, nếu đáp ứng đủ các điều kiện về đầu tư”. Điều lệ cũng quy định ba hình thức đầu tư chủ yếu bao gồm: (i) Hợp tác sản xuất chia sản phẩm, (ii) Xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp, (iii) xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu.
Có thể nói, Điều lệ đầu tư nước ngoài 1977 đã tạo cơ sở cho việc xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ và đặt nền móng cho các hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, nhược điểm của Điều lệ này là quy định còn khá khái quát, thiếu các quy định cụ thể mang tính hướng dẫn thi hành, văn bản luật được xây dựng chưa lô-gic, chưa thật chính xác, thời hạn đầu tư quá ngắn trong khi thuế lợi tức lại quá cao. Điều này dẫn đến một hệ quả tất yếu là thu hút đầu tư của Việt Nam trong những năm đầu sau mở cửa còn nhiều hạn chế, nhà đầu tư còn do dự khi ra quyết định đầu tư…
b) Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987
Ngày 31/12/1987 Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với 6 Chương và 42 Điều, quy định về nguyên tắc, hình thức và các biện pháp bảo đảm đầu tư, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân đầu tư nước ngoài và cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.
Về cơ bản, Luật đầu tư nước ngoài 1987 là sự cụ thể hóa của Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977, đặc biệt bổ sung thêm các lĩnh vực đầu tư để nhà đầu tư lựa chọn. Ngoài ra, Luật đầu tư nước ngoài 1987 cũng quy định kỹ hơn về “đối tác đầu tư nước ngoài” và hoàn thiện ba mô hình đầu tư chủ đạo bao gồm: (i) Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh, (ii) Xí nghiệp hoặc công ty liên doanh (đều gọi chung là xí nghiệp liên doanh), và (iii) Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Có thể nói, Luật đầu tư nước ngoài 1987 đã mở đường cho hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nội dung pháp lý luật cũng có nhiều tiến bộ, lô-gic, cụ thể hơn nhiều so với Điều lệ đầu tư 1977, cơ chế bảo đảm hoạt động đầu tư được cam kết và khẳng định, các mô hình đầu tư được cải thiện, lĩnh vực đầu tư được mở rộng, thuế lợi tức được giảm… Tuy nhiên, ở góc độ hạn chế, có thể thấy rằng Luật đầu tư nước ngoài 1987 còn giới hạn đối tượng hợp tác kinh doanh, chưa đề ra cơ chế quản lý các loại hình đầu tư, chưa đề cập đến các vấn đề bảo vệ môi trường, tuyển dụng lao động…
c) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1990
Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa 8 ngày 30/6/1990 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Luật sửa đổi, bổ sung năm 1990 chỉ tập trung vào ba vấn đề trọng yếu là (i) Cho phép các tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân được hợp tác đầu tư nước ngoài, (ii) Bổ sung hình thức liên doanh nhiều bên và (iii) Cho phép trả lương và các khoản phụ cấp của người lao động Việt Nam bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài.
d)Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1992
Bước vào đầu những năm 1990, Việt Nam dần thoát khỏi tình trạng khủng hoảng trì trệ ban đầu do cơ chế quản lý tập trung, “quan liêu bao cấp”, nền kinh tế đã bắt đầu có bước hồi phục sau thời kỳ suy thoái “trầm trọng” từ sau thời điểm đất nước thống nhất. Trước nhu cầu đổi mới từng bước nền kinh tế, nhà nước cũng chủ động đổi mới hệ thống pháp luật, chú trọng trước mắt vào cơ chế quản lý hoạt động đầu tư, kinh doanh để đảm bảo thị trường phát triển ổn định, tạo nguồn thu cho ngân sách quốc gia.
Trong bối cảnh đó, ngày 23/12/1992 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với năm vấn đề chính bao gồm: (i) Doanh nghiệp tư nhân được hợp tác trực tiếp với nước ngoài, (ii) Bên Việt Nam có thể góp vốn bằng tiền nước ngoài có thể tăng dần tỉ trọng góp vốn theo thỏa thuận, (iii) Bổ sung quy định về hình thức đầu tư mới là xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), (iv) Nhà nước đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư khi có thay đổi về pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư và (v) Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi về thuế cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
e)Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996
Năm 1996 Việt Nam bước vào giai đoạn đẩy mạnh “công nghiệp hóa”, “hiện đại hóa” đất nước đồng thời hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cũng trong giai đoạn này, với số dân trẻ chiếm tỉ lệ cao, đặc biệt mới mở cửa thị trường cho giao thương khu vực và thế giới, Việt Nam thực sự là một điểm đến lý tưởng cho đầu tư nước ngoài.
Tuy vậy, hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, thương mại của Việt Nam còn nhiều lạc hậu, bất cập, cần thiết phải được khắc phục để đảm bảo một môi trường lành mạnh, thu hút nhân lực, vật lực từ các hoạt động đầu tư, đặc biệt từ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với bối cảnh đó, Quốc hội khóa 9 kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài 1996 ngày 12/11/1996 để thay thế Luật đầu tư nước ngoại tại Việt Nam ngày 29/12/1987, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 30/6/1990, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 23/12/1992.
Đây có thể coi là một bước tiến quan trọng trong quá trình kiện toàn hệ thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 đã cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, là động lực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và là công cụ hữu hiệu của nhà nước giúp hạn chế các sơ hở, khiếm khuyết trong quản lý các hoạt động đầu tư, kinh doanh, tiến tới hoàn chỉnh hành lang pháp lý về đầu tư tại Việt Nam.
Tuy nhiên, hạn chế của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 là chưa đa dạng hóa các hình thức đầu tư; cơ chế chuyển đổi hình thức đầu tư, các chế tài xử lý tranh chấp, phá sản, thanh lý và giải thể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chưa rõ ràng; việc tổ chức điều hành doanh nghiệp liên doanh còn nhiều bất hợp lý; các thủ tục hành chính còn nặng cơ chế “xin-cho”…Chính vì vậy, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 vẫn cần phải cải thiện hơn nữa để hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động đầu tư kinh doanh.
f) Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 1998)
Bên cạnh việc chú trọng xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài, Việt Nam cũng từng bước xây dựng khung pháp lý cho hoạt động đầu tư trong nước với quan điểm thu hút và phát triển nội lực, tạo ra lợi thế cạnh tranh để khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước phát triển. Với việc ra đời của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 (sửa đổi, bổ sung năm 1990, 1992), nhu cầu phải có một bộ luật quy định về đầu tư trong nước để tránh tình trạng bất bình đẳng giữa các nhà đầu tư là khá cấp thiết. Ngày 22/06/1994 Luật khuyến khích đầu tư trong nước được Quốc hội thông qua, bao gồm 7 Chương, 24 Điều, điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong nước và áp dụng với nhà đầu tư Việt Nam.
Đây là một văn bản luật riêng rẽ trong hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, thương mại của Việt Nam, tập trung điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong nước, với đối tượng chịu sự điều chỉnh chỉ là các tổ chức, cá nhân Việt Nam. Hình thức đầu tư theo luật này bao gồm: (i) Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, (ii) Đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ của các cơ sở sản xuất, kinh doanh hiện có; (iii) Mua cổ phần của các doanh nghiệp, góp vốn vào các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước được phép đa dạng hóa hình thức sở hữu.
Về cơ bản, Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 gần như là một “bản sao” của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhưng được ban hành để áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân đầu tư trong nước. Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản là Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 cung cấp một cơ chế ưu đãi đầu tư rất chi tiết cho các dự án được nhà đầu tư Việt Nam thực hiện.
Ngoài các lĩnh vực đầu tư được ưu đãi như chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản; các dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu… thì luật còn hướng đến việc khuyến khích đầu tư ở các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác và khuyến khích đầu tư thành lập cơ sở sản xuất sử dụng công nghệ hiện đại, cơ sở sản xuất sử dụng nhiều lao động.
g) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000
Nhằm tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, thu hút nguồn ngoại tệ để phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới, ngày 09/06/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài năm 2000. Với lần sửa đổi này, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thể hiện quan điểm rất rõ rệt của nhà nước là khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thu hút nguồn lực đầu tư từ bên ngoài để cải tạo môi trường đầu tư, thu hút vốn, nhân lực để phát triển đất nước. Bên cạnh những ưu điểm, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 còn có một số điểm bất hợp lý. Chẳng hạn, luật tiếp tục tạo ra hố sâu ngăn cách giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư Việt Nam, vẫn đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước, chưa tạo điểm nhấn cho các lĩnh vực đầu tư trọng tâm…
h) Luật đầu tư 2005
Bước vào đầu năm 2005, Việt Nam đứng trước cơ hội gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế WTO và hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó, những đòi hỏi phải cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh được đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết. Trong giai đoạn này, khung pháp luật về đầu tư tại Việt Nam còn rất manh mún, các quy định còn thiếu thống nhất và khá rải rác, đặc biệt việc vẫn duy trì hai bộ luật áp dụng riêng cho nhà đầu tư trong nước (Luật khuyến khích đầu tư trong nước) và nhà đầu tư nước ngoài (Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam) vô hình chung tạo ra sự “bất bình đẳng” và phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế.
Trước tình hình đó, yêu cầu đặt ra phải ban hành một bộ luật đầu tư chung để tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, nhà đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời của Luật đầu tư năm 2005. Nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo ra một sân chơi “bình đẳng”, đơn giản hóa các thủ tục đầu tư, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư, ngày 29/11/2005 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư năm 2005 gồm 9 Chương, 89 Điều, quy định về 6 vấn đề cơ bản sau đây:
- Các hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh;
- Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư;
- Bảo đảm đầu tư, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư;
- Khuyến khích và ưu đãi đầu tư;
- Trình tự, thủ tục cấp giấy phép dự án đầu tư;
- Quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Điểm cách mạng lớn nhất của Luật đầu tư năm 2005 là đã tạo ra một môi trường pháp lý bình đẳng cho tất cả các nhà đầu tư không phân biệt yếu tố “trong nước” hay “nước ngoài”. Với hướng tiếp cận đó, Luật đầu tư năm 2005 thay thế cho cả hai luật cũ là Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Cụ thể, Điều 2 Luật đầu tư 2005 quy định về đối tượng áp dụng gồm “nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài” cùng với “tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư”.
Ở góc độ tổng quát, có thể nói rằng Luật đầu tư 2005 là một bước đột phá trong quá trình xây dựng pháp luật về hoạt động đầu tư, kinh doanh của Việt Nam, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của hoạt động đầu tư, góp phần thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước nhằm phát triển kinh tế xã hội và đẩy mạnh việc hội nhập của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
i. Luật đầu tư năm 2020 (được đề cập cụ thể tại phần sau)
Luật số: 61/2020/QH14
GIỚI THIỆU LUẬT ĐẦU TƯ 2020
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT ĐẦU TƯ
Luật Đầu tư năm 2005 được thông qua vào thời điểm kinh tế tư nhân trong nước đang phát triển mạnh mẽ, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt được những bước tiến dài sau thời gian áp dụng những quy định mang tính đột phá của Luật doanh nghiệp năm 1999 và Luật đầu tư nước ngoài năm 1987. Đây cũng là thời điểm Việt Nam chuẩn bị trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với những cam kết mạnh mẽ về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ và tự do hóa hoạt động đầu tư. Việc ban hành Luật Đầu tư năm 2005 là một bước tiến hết sức quan trọng trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam.
Tuy nhiên, sau 9 năm triển khai thi hành, Luật đầu tư 2005 đã bộc lộ rất nhiều hạn chế, đặc biệt ở khâu xin và cấp phép đầu tư. Trong khi đó vai trò quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư lại khá mờ nhạt. Thủ tục cấp GCNĐT được áp dụng quá rộng, bao gồm tất cả các dự án đầu tư nước ngoài và nhiều dự án đầu tư trong nước, trong đó có cả các dự án chỉ thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ thông thường và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện. Trong khi pháp luật hiện hành đã có quy định cụ thể về các điều kiện kinh doanh và quản lý hoạt động này thì việc cấp GCNĐT cho các dự án nêu trên vừa tạo thêm thủ tục hành chính cho nhà đầu tư, vừa dẫn đến trùng lặp trong hoạt động quản lý của nhà nước[2].
Các quy định về thực hiện, triển khai và chấm dứt dự án đầu tư được ban hành chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, gây khó khăn cho nhà đầu tư trong công tác quản lý dự án. Chẳng hạn trong quá trình hoạt động của mình, nhà đầu tư gặp khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện thủ tục điều chỉnh dự án đầu tư, tạm dừng thực hiện dự án, thanh lý dự án… do quy định của pháp luật đầu tư còn thiếu và yếu, xuất hiện tình trạng trồng chéo, mâu thuẫn… Điều này không tạo cơ sở pháp lý để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư, đồng thời cơ quan nhà nước không đủ công cụ, chế tài cần thiết giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình quản lý hoạt động đầu tư.
Những quy định về nội dung, trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư cũng như cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý từ công tác xây dựng cơ chế, chính sách, xúc tiến đầu tư đến cấp, điều chỉnh, thu hồi GCNĐT và quản lý hoạt động của dự án đầu tư… chưa được quy định cụ thể. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả thực hiện cơ chế phân cấp quản lý đầu tư[3].
Về mặt quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, Luật đầu tư 2005 chưa thể hiện rõ các nội dung, trách nhiệm quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư cũng như chưa làm rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý từ công tác xây dựng cơ chế, chính sách, xúc tiến đầu tư đến cấp, điều chỉnh, thu hồi GCNĐT và quản lý hoạt động của dự án đầu tư…Điều này dẫn đến hậu quả là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư chưa cho hiệu quả rõ rệt.
Mặc dù dành hẳn một chương (Chương VIII) cho các quy định về đầu tư ra nước ngoài nhưng Luật đầu tư 2005 không xác định rõ các hình thức, lĩnh vực, điều kiện để đầu tư ra nước ngoài, đồng thời chưa phân định những hoạt động đầu tư ở nước ngoài thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và những hoạt động thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
Ngoài ra, thực tiễn cho thấy các quy định về quản lý và sử dụng vốn nhà nước để thực hiện đầu tư ra nước ngoài còn chưa đầy đủ và rõ ràng. Điều này dẫn đến hệ quả là doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài thì lại phải xin ý kiến chính thức của cổ đông hoặc thành viên là đại diện quản lý vốn nhà nước trong doanh nghiệp. Quy trình này thực sự gây ra phiền hà, cản trở hoạt động đầu tư, tạo ràng buộc không đáng có cho doanh nghiệp, gây khó khăn cho họ trong việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài.
Trong bối cảnh đó, mặc dù Chính phủ đã chỉ đạo ráo riết và thu được một số kết quả nhất định trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nhất là cải cách thủ tục hành chính, nhưng so với nhiều nước ASEAN, thì hệ thống luật pháp và thủ tục hành chính của nước ta vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư lớn[4].
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
Một là, thể chế hóa nguyên tắc hiến định về quyền tự do kinh doanh của công dân trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi và minh bạch hơn nữa để huy động có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; góp phần thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Hai là, tạo bước chuyển biến mới về cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện hoạt động đầu tư gắn liền với việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu qủa công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư; hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý đầu tư, góp phần tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để các nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư với thủ tục đơn giản hơn và chi phí thấp hơn.
Ba là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế khuyến khích, bảo hộ đầu tư phù hợp với cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường và tự do hóa đầu tư theo các điều ước quốc tế đã hoặc sẽ thỏa thuận trong thời gian tới, trong đó có Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Bốn là, những nội dung của Luật phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các luật liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh, đồng thời kế thừa, tiếp tục phát triển và hoàn thiện những quy định của Luật đầu tư hiện hành còn phù hợp với thực tế.
Như vậy, yêu cầu mà Luật đầu tư 2014 cần đáp ứng là phải xử lý toàn bộ các khiếm khuyết còn tồn động về pháp luật về đầu tư hiện hành, cải tiến thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực cạnh tranh, hướng tới mở cửa thị trường và tiến hành hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới.
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
1. Phạm vi điều chỉnh
Khác với quy định của Luật đầu tư 2014, Luật đầu tư 2020, chỉ quy định rất khái quát về phạm vi điều chỉnh “các hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và hoạt động đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài” (Điều 1).
Trong quá trình soạn thảo luật, có nhiều ý kiến cho rằng Luật đầu tư 2020 cần chú ý vào 3 nhóm hoạt động chính gồm (i) Đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, (ii) Đầu tư tại Việt Nam và (iii) Đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài[5]. Tuy nhiên, khi được thông qua thì hai nhóm hoạt động đầu tư (i) và (ii) được gộp vào một là “hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam” bởi vì hai nhóm này thực chất diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, nên không cần thiết phải phân chia làm hai trường hợp để phức tạp hóa vấn đề. Ngoài ra, theo xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế và nhu cầu hội nhập khu vực và thế giới, đầu tư ra nước ngoài là hoạt động đang khá phổ biến và cũng phải nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật đầu tư 2020 (đã được quy định trong Luật đầu tư 2014).
Đặc biệt Luật đầu tư 2020 đã không quy định về “đầu tư gián tiếp” trong khi chế định này xuất hiện rất mờ nhạt trong Luật đầu tư 2014 và 2005. Bởi vì hoạt động đầu tư gián tiếp (đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư) đã được quy định tại các luật chuyên ngành như Luật chứng khoán hay các quy định dưới luật. Do vậy, Luật đầu tư 2014 chỉ tập trung vào khái niệm “đầu tư kinh doanh”, tức là đầu tư ở góc độ chung nhất mà không phân biệt ra hai hình thức khác biệt là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp như luật cũ.
2. Về đối tượng điều chỉnh
Về kỹ thuật lập pháp, Luật đầu tư 2020 quy định một cách ngắn gọn, súc tích nhưng đã bao hàm đủ nội dung với 2 nhóm đối tượng là: (i) Nhà đầu tư, và (ii) Các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh. Như vậy, Luật đầu tư 2014 đã không chia hai đối tượng áp dụng là nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó các hoạt động của nhà đầu tư diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam hoặc từ Việt Nam ra nước ngoài, đều phải chịu sự điều chỉnh của luật. Nói cách khách, luật chỉ chú trọng vào hoạt động “đầu tư kinh doanh” mà không chú trọng đến chủ thể tiến hành hoạt động đầu tư. Đầu tư kinh doanh, là hoạt động chính chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư mới, cũng được bổ sung vào phần định nghĩa trong Luật đầu tư 2020 để thay thế cho định nghĩa “đầu tư” theo luật 2005. Theo đó“Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”.
3. Chính sách đầu tư
Chính sách về đầu tư được áp dụng xuyên suốt từ Luật đầu tư 2005 đến Luật đầu tư 2014 và Luật đầu tư 2020 là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân vốn đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Luật đầu tư 2014 quy định “Nhà đầu tư được quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề mà Luật này không cấm”, “được tự chủ quyết định hoạt động đầu tư kinh doanh theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; được tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ, sử dụng đất đai và tài nguyên khác theo quy định của pháp luật” (Điều 5).
Đặc biệt các quyền về sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền lợi ích khác của nhà đầu tư đều được công nhận và bảo hộ. Nhà nước đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư; có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, phát triển bền vững các ngành kinh tế; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư kinh doanh mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Lĩnh vực cấm đầu tư, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
Về lĩnh vực cấm đầu tư, Luật đầu tư 2005 quy định về 4 lĩnh vực bị cấm đầu tư bao gồm (i) Dự án phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia và lợi ích công cộng, (ii) Các dự án gây phương hại đến di tích lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của Việt Nam, (iii) Các dự án gây tổn hại đến sức khỏe nhân dân, làm hủy hoại tài nguyên, phá hủy môi trường và (iv) Các dự án xử lý phế thải độc hại đưa từ bên ngoài vào Việt Nam, sản xuất các loại hóa chất độc hại hoặc sử dụng tác nhân độc hại bị cấm theo điều ước quốc tế. Thoạt nhìn, nhà đầu tư có vẻ thấy rằng các lĩnh vực cấm đầu tư là khá hạn chế. Tuy nhiên thực tế cho thấy các quy định nêu trên rất khó áp dụng vì quy định rất chung, mơ hồ, thành ra phạm vi áp dụng của nó khá rộng lớn. Nhà đầu tư khó có thể bị dự án như thế nào là dự án có thể gây phương hại đến an ninh quốc phòng hay lợi ích quốc gia. Tương tự như vậy, các dự án nào có khả năng ảnh hưởng đến môi trường cũng không được định rõ. Trong khi đó, luật cũ chỉ cấm các lĩnh vực đầu tư sản xuất hóa chất độc hại nhưng lại không làm rõ các loại chất nào bị cấm theo quy định.
Để khắc phục hạn chế này, Luật đầu tư 2020 đã quy định về 6 ngành, nghề mà nhà đầu tư bị cấm thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh bao gồm: (i) Kinh doanh các chất ma túy quy định tại Phụ lục 1 của Luật đầu tư, (ii) Kinh doanh các loại hóa chất, khoáng vật quy định tại Phụ lục 2 của Luật đầu tư, (iii) Kinh doanh mẫu vật các loại thực vật, động vật hoang dã theo quy định tại Phụ lục 1 của Công ước về buôn bán quốc tế các loài thực vật, động vật hoang dã nguy cấp; mẫu vật các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm Nhóm I có nguồn gốc từ tự nhiên theo quy định tại Phụ lục 3 của Luật này, (iv) Kinh doanh mại dâm, (v) Mua, bán người, mô, bộ phận cơ thể người, và (vi) Hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính trên người.
Như vậy, nhìn vào danh mục các ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh theo Luật đầu tư 2014 có thể thấy rằng các yếu tố định hình, định lượng đã được cân nhắc khá kỹ, phạm vi điều luật đã không còn mơ hồ do đã dự liệu tất cả các danh mục hàng hóa hay chất bị cấm hoặc các loại động vật hoang dã không được phép kinh doanh, đưa hẳn vào phụ lục (gồm Phụ lục 1, 2 và 3) để nhà đầu tư tham khảo. Đây là cách tiếp cận hoàn toàn mới so với luật 2005, tạo ra một hành lang pháp lý khá minh bạch, dễ áp dụng và có tác dụng hỗ trợ các hoạt động đầu tư kinh doanh.
Về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, Luật đầu tư 2020đã quy định thống nhất ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong đó xác định rõ ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là các ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Với quy định: Điều kiện đối với các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong Danh mục được quy định chi tiết tại Luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Bộ, ngành, hội đồng nhân dân và UBND không được quy định điều kiện đầu tư kinh doanh, Luật đầu tư 2020 đã hạn chế việc đưa ra các rào cản đầu tư kinh doanh có tính chất như các “giấy phép con”, hạn chế quyền tự do kinh doanh và gây trở ngại về thủ tục hành chính cho nhà đầu tư.
5. Bảo đảm đầu tư
Các quy định về bảo đảm đầu tư trong Luật đầu tư 2020 được kế thừa, được cải thiện đáng kể với mục đích thu hút đầu tư, tạo tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư nước ngoài nói riêng khi bỏ vốn, nguồn lực, công nghệ để thực hiện dự án tại Việt Nam. Nội dung về đảm bảo đầu tư theo Luật đầu tư năm 2014 tập trung vào 7 nhóm vấn đề chính gồm:
- Bảo đảm về vốn và tài sản;
- Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ;
- Mở cửa thị trường, đầu tư liên quan đến thương mại;
- Chuyển vốn, tài sản ra nước ngoài;
- Áp dụng giá, phí, lệ phí thống nhất;
- Bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật, chính sách;
- Giải quyết tranh chấp.
Với 07 nhóm vấn đề này, chế định bảo đảm đầu tư trong Luật đầu tư 2005 gồm 3 mảng chính là (i) Bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư về vốn và tài sản, (ii) Bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư về các hoạt động kinh doanh và (iii) Bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư cho các hoạt động khác. Luật đầu tư 2014 đã hoàn thiện và tập trung vào 3 nội dung chính sau đây:
- Bảo đảm về tài sản cho chủ đầu tư
Một trong những điều kiện tiên quyết để nhà đầu tư tiến hành đầu tư kinh doanh tại Việt Nam là tài sản của họ phải được đảm bảo. Tức là trong bất cứ trường hợp nào, “vốn liếng” kinh doanh của họ cũng không thể bị tịch thu hay bị quốc hữu hóa bằng các biện pháp hành chính. Điều 9 Luật đầu tư 2020 quy định: “Tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trường hợp nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai thì nhà đầu tư được thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản và quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và có lợi nhuận, có các khoản vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư, các khoản tiền và tài sản hợp pháp khác được đảm bảo chuyển tài sản về nước sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính (đóng thuế, phí…) cho nhà nước Việt Nam.
- Bảo đảm hoạt động đầu tư kinh doanh
Về nguyên tắc, các hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư được tôn trọng triệt để, nhà nước không can thiệp vào các hoạt động này, không tạo ra các hạn chế mà ngược lại, tạo điều kiện thuận lợi tối đa để nhà đầu tư phát huy hết các nguồn lực. Vì vậy, Luật đầu tư 2020 quy định không buộc nhà đầu tư phải ưu tiên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ trong nước hoặc phải mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ trong nước. Nhà đầu tư cũng không buộc phải “Xuất khẩu hàng hóa hoặc dịch vụ đạt một tỷ lệ nhất định; hạn chế số lượng, giá trị, loại hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu hoặc sản xuất, cung ứng trong nước”, không buộc phải “nhập khẩu hàng hóa với số lượng và giá trị tương ứng với số lượng và giá trị hàng hóa xuất khẩu hoặc phải tự cân đối ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu”.
Nếu như trước đây ở một số lĩnh vực ngành nghề, nhà nước có yêu cầu các sản phẩm của nhà đầu tư (thường là nhà đầu tư nước ngoài) phải đạt một tỉ lệ nội địa hóa nhất định (ví dụ sản xuất ô tô) để giúp hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước thì với luật mới lần này, các hạn chế về tỉ lệ nội địa hóa đã bị dỡ bỏ. Tương tự, các giá trị nhất định trong hoạt động nghiên cứu và phát triển ở trong nước, vốn trước đây là yêu cầu đối với hoạt động đầu tư trong một số lĩnh vực như công nghệ cao cũng không còn được áp dụng theo Luật đầu tư 2020. Không chỉ có vậy, nhà đầu tư được tự do lựa chọn địa điểm thực hiện kinh doanh, cung cấp hàng hóa dịch vụ và không bị bắt buộc phải đặt trụ sở chính tại địa điểm theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Bảo đảm hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư kinh doanh
Nội dung bảo đảm hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư kinh doanh cho nhà đầu tư theo Luật đầu tư 2014 bao gồm: (i) Bảo lãnh cho một số dự án quan trọng, (ii) Bảo đảm đầu tư kinh doanh trong trường hợp thay đổi pháp luật, và (iii) Bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp cho hoạt động đầu tư kinh doanh.
Đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nhu cầu xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm, cảng biển, cảng hàng không…) là hết sức quan trọng. Các dự án đầu tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng thường đòi hỏi vốn lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại cùng nguồn nhân sự quản lý có chất lượng và kinh nghiệm từ nước ngoài. Với các dự án này, Chính phủ sẽ hỗ trợ nhà đầu tư bằng cách cấp bảo lãnh nghĩa vụ thực hiện hợp đồng cho cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện dự án.
Cụ thể, Điều 12 Luật đầu tư 2020 quy định “Thủ tướng Chính phủ quyết định việc bảo lãnh nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và những dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng quan trọng khác”.
Ngoài ra, trong các trường hợp thay đổi chính sách pháp luật dẫn đến quyền lợi bị ảnh hưởng, nhà đầu tư sẽ được hưởng ưu đãi ở mức cao nhất. Đó là một trong những quy định về bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư mà Luật đầu tư 2020 tiếp nối từ Luật đầu tư 2014. Đầu tư kinh doanh là một quá trình lâu dài, có những dự án đầu tư có thời hạn lên đến 20, 30 năm hoặc dài hơn.
Trong suốt quá trình thực hiện dự án đầu tư đó, rất có thể pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư khi họ thiết lập dự án đến khi thực hiện dự án có nhiều biến đổi. Ở một số trường hợp, nhà đầu tư được hưởng ưu đãi hoặc có quyền lợi lớn hơn so với những gì họ đang nhận dựa trên các quy định pháp luật mới. Tuy nhiên cũng có trường hợp, quyền lợi của nhà đầu tư bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các quy định pháp luật mới ban hành đã cắt giảm các ưu đãi mà trước đây nhà đầu tư được hưởng.
Những thay đổi về chính sách pháp luật là tình huống khách quan, xảy ra nằm ngoài ý chí chủ quan của nhà đầu tư mà họ không thể lường trước hay có thể kiểm soát được. Do vậy, pháp luật về đầu tư ở hầu hết các nước đều có quy định giải quyết quyền lợi cho nhà đầu tư trong trường hợp có thay đổi về pháp luật điều chỉnh. Theo Điều 13 Luật đầu tư 2020, thì “trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư cao hơn ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư đang được hưởng thì nhà đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của văn bản pháp luật mới cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án”. Ngược lại, “trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư thấp hơn ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu tư theo quy định trước đó cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án”.
Trong trường hợp có sự thay đổi pháp luật về lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng, bảo vệ môi trường, mà nhà đầu tư không được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu tư, thì họ có thể được xem xét giải quyết bằng một hoặc một số biện pháp sau đây: (i) khấu trừ thiệt hại thực tế của nhà đầu tư vào thu nhập chịu thuế; (ii) điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án đầu tư; (iii) hỗ trợ nhà đầu tư khắc phục thiệt hại.
Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư và tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh, khác biệt, mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra giữa các nhà đầu tư, giữa nhà đầu tư với cơ quan quản lý nhà nước hoặc giữa nhà đầu tư với bên thứ ba là rất phổ biến. Để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư trong giải quyết tranh chấp, Luật đầu tư 2014 quy định những nguyên tắc cơ bản để xử lý tranh chấp theo 4 loại cơ bản sau đây:
- Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam: Được giải quyết thông qua thương lượng hoặc hòa giải. Trường hợp thương lượng, hòa giải không thành, tranh chấp đó có thể được xử lý bởi tòa án hoặc trọng tài, theo sự lựa chọn của các bên liên quan.
- Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoặc giữa nhà đầu tư trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam (trừ các tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam).
- Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong đó có ít nhất một bên là nhà đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên được giải quyết thông qua một trong những cơ quan, tổ chức gồm (i) Tòa án Việt Nam, (ii) Trọng tài Việt Nam, (iii) Trọng tài nước ngoài, (iv) Trọng tài quốc tế, (v) Trọng tài do các bên tranh chấp thành lập (trọng tài ad-hoc).
- Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo hợp đồng hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
6. Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư
kế thừa và phát triển các quy định về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư tại Chương V, Luật đầu tư 2005, Luật đầu tư 2014 đã làm rõ các loại ưu đãi đầu tư và bổ sung thêm những đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư để mở rộng phạm vi quyền lợi của nhà đầu tư. Thay vì quy định tách biệt về lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư, Luật đầu tư 2014 hướng đến việc làm rõ hai hình thức ưu đãi đầu tư và liệt kê các đối tượng được hưởng ưu đãi đó.
Về hỗ trợ đầu tư, ngoài các hình thức hỗ trợ truyền thống như hỗ trợ chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ và khuyến khích phát triển dịch vụ đầu tư… Luật đầu tư 2020 còn bổ sung thêm các hình thức hỗ trợ đầu tư khác trong đó chú trọng đến hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các công trình dịch vụ, tiện ích trong các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
6.1. Ưu đãi đầu tư
Luật đầu tư 2020 quy định về hai hình thức ưu đãi đầu tư thông qua chính sách thuế với nhà đầu tư gồm (i) Ưu đãi về thuế suất và (ii) Ưu đãi miễn, giảm thuế. Theo Điều 15 của Luật cơ quan nhà nước sẽ áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; hoặc cũng có thể miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho nhà đầu tư trong một số trường hợp. Không chỉ có vậy, nhà đầu tư cũng có thể được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư hay miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất. Theo Khoản 2 Điều 15 Luật đầu tư 2014, các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư bao gồm:
- Dự án đầu tư thuộc ngành, nghề ưu đãi đầu tư gồm:
(i) Hoạt động công nghệ cao, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao;
(ii) Hoạt động nghiên cứu và phát triển, sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo;
(iii) Sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng từ 30% trở lên, sản phẩm tiết kiệm năng lượng;
(iv) Sản xuất sản phẩm điện tử, sản phẩm cơ khí trọng điểm, máy nông nghiệp, ô tô, phụ tùng ô tô; đóng tàu;
(v) Sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho ngành dệt may, da giày;
(vi) Sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin, phần mềm, nội dung số;
(vii) Nuôi trồng, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản; trồng và bảo vệ rừng; làm muối; khai thác hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá; sản xuất giống cây trồng, giống vật nuôi, sản phẩm công nghệ sinh học;
(viii) Thu gom, xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải;
(ix) Đầu tư phát triển và vận hành, quản lý công trình kết cấu hạ tầng; phát triển vận tải hành khách công cộng tại các đô thị;
(x) Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp;
(xi) Khám bệnh, chữa bệnh; sản xuất thuốc, nguyên liệu làm thuốc, thuốc chủ yếu, thuốc thiết yếu, thuốc phòng, chống bệnh xã hội, vắc xin, sinh phẩm y tế, thuốc từ dược liệu, thuốc đông y; nghiên cứu khoa học về công nghệ bào chế, công nghệ sinh học để sản xuất các loại thuốc mới;
(xii) Đầu tư cơ sở luyện tập, thi đấu thể dục, thể thao cho người khuyết tật hoặc chuyên nghiệp; bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
(xiii) Đầu tư trung tâm lão khoa, tâm thần, điều trị bệnh nhân nhiễm chất độc màu da cam; trung tâm chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ mồ côi, trẻ em lang thang không nơi nương tựa;
(xiv) Quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô.
- Dự án đầu tư tại địa bàn ưu đãi đầu tư gồm: (i) Địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, (ii) Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế;
- Dự án đầu tư có quy mô vốn từ 6.000 tỷ đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 6.000 tỷ đồng trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp GCNĐKĐT hoặc quyết định chủ trương đầu tư;
- Dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng từ 500 lao động trở lên;
- Doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ.
Như vậy Luật đầu tư 2020 đã bổ sung vào Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư các dự án năng lượng mới, năng lượng sạch, các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao, sản phẩm cơ khí trọng điểm. Đồng thời Luật cụ thể hóa tiêu chí xác định một số dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư (ví dụ: các dự án thu gom, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải, khí thải). Để khắc phục việc áp dụng ưu đãi đầu tư tràn lan đối với tất cả các dự án thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư, Luật đầu tư 2014 quy định ưu đãi đầu tư theo địa bàn không áp dụng đối với các dự án khai thác khoáng sản; dự án sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phù hợp với quy định của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
Về thủ tục áp dụng ưu đãi đầu tư, Luật đầu tư 2014 áp dụng cơ chế ghi rõ nội dung ưu đãi đầu tư trong Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (“GCNĐKĐT”) trong trường hợp dự án được cấp GCNĐKĐT. Đối với dự án không thuộc trường hợp được cấp GCNĐKĐT thì nhà đầu tư căn cứ vào các ưu đãi và điều kiện hưởng ưu đãi đầu tư quy định tại Luật đầu tư để tự xác định ưu đãi và làm thủ tục hưởng ưu đãi đầu tư tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không phải thực hiện thủ tục xin cấp GCNĐKĐT.
6.2. Hỗ trợ đầu tư
Nếu như ở Luật đầu tư 2005, và 2014 việc hỗ trợ đầu tư chỉ dừng lại ở các nội dung: hỗ trợ chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đào tạo, khuyến khích phát triển dịch vụ, hỗ trợ đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, hỗ trợ thị thực xuất nhập cảnh thì theo Luật đầu tư 2020, phạm vi hoạt động hỗ trợ đầu tư đã được mở rộng hơn. Ngoài các hoạt động hỗ trợ đầu tư nêu trên, Luật còn bổ sung thêm các hình thức hỗ trợ khác như: hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ tiếp cận mặt bằng sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ di dời cơ sở sản xuất ra khỏi nội thành, nội thị, hỗ trợ khoa học, kỹ thuật, hỗ trợ phát triển thị trường, cung cấp thông tin, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển.
Luật còn các quy định chi tiết về hỗ trợ phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Theo đó “nhà nước hỗ trợ một phần vốn đầu tư phát triển từ ngân sách và vốn tín dụng ưu đãi để phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp tại địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn hoặc địa bàn kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn” và “nhà nước hỗ trợ một phần vốn đầu tư phát triển từ ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi và áp dụng các phương thức huy động vốn khác để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong khu kinh tế, khu công nghệ cao”.
Đối với việc hỗ trợ phát triển nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế, Luật đầu tư 2020 quy định “UBND cấp tỉnh lập quy hoạch và bố trí quỹ đất để phát triển nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động làm việc trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế” và “đối với các địa phương gặp khó khăn trong bố trí quỹ đất phát triển nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong khu công nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc điều chỉnh quy hoạch khu công nghiệp để dành một phần diện tích đất phát triển nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng”.
7. Hoạt động đầu tư tại Việt Nam
Do Luật đầu tư 2020 tập trung vào các hoạt động đầu tư kinh doanh mà không tập trung vào các chủ thể tiến hành hoạt động đó. Vì thế về nguyên tắc, bất kỳ hoạt động đầu tư nào diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, dù được nhà đầu tư nước ngoài hay nhà đầu tư trong nước thực hiện, đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Nếu như Luật năm 2005 phân định hai hình thức đầu tư là: đầu tư trực tiếp (đầu tư gắn với việc tham gia trực tiếp vào quản lý hoạt động đầu tư) và đầu tư gián tiếp (mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác…mà không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư) thì Luật năm 2014 không còn phân định hai hình thức này một cách biệt lập nữa, mà chỉ tập trung quy định các hoạt động “đầu tư kinh doanh”. Đồng thời tập trung rõ các hình thức đầu tư, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư, cấp, điều chỉnh, thu hồi GCNĐKĐT và triển khai thực hiện dự án đầu tư.
7.1. Hình thức đầu tư
Luật đầu tư 2020 nhà đầu tư được lựa chọn các hình thức đầu tư sau đây:
- Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế;
- Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế;
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP;
- Đầu tư theo hình thức Hợp đồng BCC;
a )Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
Luật đầu tư 2020 quy định: “nhà đầu tư được thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật”. Tuy vậy, trước khi thành lập tổ chức kinh tế (thường dưới dạng một doanh nghiệp), nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp GCNĐKĐT và phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ theo quy định (ngoài trừ một số trường hợp nhất định nhà đầu tư nước ngoài phải tuân theo hạn chế về tỉ lệ vốn điều lệ mà họ nắm giữ trong công ty niêm yết, các công ty cổ phần hóa hay các công ty chịu sự hạn chế về mở cửa thị trường theo pháp luật chuyên ngành hay các điều ước mà Việt Nam ký kết, còn lại nhà đầu tư nước ngoài được sỡ hữu vốn điều lệ không hạn chế trong các tổ chức kinh tế);
- Hình thức đầu tư, phạm vi hoạt động, đối tác Việt Nam tham gia thực hiện hoạt động đầu tư và điều kiện khác theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Như vậy, điểm mới nổi bật của Luật năm 2020 về quy trình thành lập tổ chức kinh tế của nhà đầu tư là việc cấp phép được phân định làm hai bước. Ở bước đầu tiên, nhà đầu tư phải có dự án đầu tư và phải xin cấp GCNĐKĐT. Sau quy trình này, nhà đầu tư sẽ thực hiện thủ tục đăng ký để thành lập doanh nghiệp. Như vậy, sau khi hoàn thành quy trình cấp phép, nhà đầu tư sẽ có hay giấy chứng nhận: GCNĐKĐT cho dự án và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp thực hiện dự án đó. Quy trình này khác biệt hơn so với quy trình cấp phép thành lập tổ chức kinh tế theo luật cũ, vốn quy định GCNĐT cũng đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và nhà đầu tư chỉ phải thực hiện một quy trình là xin cấp GCNĐT, chứ không cần phải thực hiện thêm một thủ tục nữa là đăng ký thành lập doanh nghiệp. Việc tách Giấy Chứng nhận đăng kí kinh doanh và GCNĐKĐT, theo giải thích của cơ quan làm luật, là hợp lí, để hỗ trợ nhà đầu tư nước ngoài vì sau này, các thủ tục hành chính về mở rộng phạm vi kinh doanh, địa bàn kinh doanh sẽ thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và cơ quan quản lí nhà nước[6]. Điều kiện gia nhập thị trường, thành lập doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài về căn bản giống các nhà đầu tư trong nước, có thể có thêm một số điều kiện và nhiều thông tin hơn. Sau này, nhà đầu tư nước ngoài muốn góp thêm vốn, muốn mua thêm cổ phần… hoàn toàn tiến hành như DN trong nước.
Sơ đồ mô tả thủ tục đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
Đối với các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam, Luật đầu tư 2020 có nhiều quy định tiến bộ hơn. Theo đó tổ chức kinh tế phải đáp ứng điều kiện và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hợp đồng BCC thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài đối với tổ chức kinh tế là công ty hợp danh;
- Có tổ chức kinh tế quy định tại điểm (i) nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên;
- Có nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế quy định tại điểm (i) nắm giữ từ 51 % vốn điều lệ trở lên.
Với quy định này, Luật đã hoàn thiện quy định về đối xử đối với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, phân biệt trên cơ sở tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trên 51% tổng vốn điều lệ của tổ chức kinh tế đó. Với các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không thuộc các trường hợp quy định ở (i), (ii) và (iii) ngay trên thì được thực hiện điều kiện và thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư trong nước khi đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC. Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam nếu có dự án đầu tư mới thì được làm thủ tục thực hiện dự án đầu tư đó mà không nhất thiết phải thành lập tổ chức kinh tế mới.
b) Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế
Về cơ bản, nhà đầu tư có quyền góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế. Riêng đối với nhà đầu tư nước ngoài, Luật đầu tư 2020 có quy định đặc thù áp dụng riêng biệt căn cứ vào tính chất sở hữu vốn của nhà đầu tư. Nhà đầu tư nước ngoài được góp vốn vào tổ chức kinh tế theo các hình thức sau đây: (i) Mua cổ phần phát hành lần đầu hoặc cổ phần phát hành thêm của CTCP; (ii) Góp vốn vào công ty TNHH, công ty hợp danh; (iii) Góp vốn vào tổ chức kinh tế khác không thuộc trường hợp tại (i) và (ii).
Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế theo các hình thức sau đây: (i) Mua cổ phần của CTCP từ công ty hoặc cổ đông; (ii) Mua phần vốn góp của các thành viên công ty TNHH để trở thành thành viên của công ty TNHH; (iii) Mua phần vốn góp của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh để trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh; (iv) Mua phần vốn góp của thành viên tổ chức kinh tế khác không thuộc trường hợp quy định tại các điểm (i), (ii) và (iii) vừa nêu.
Nhà đầu tư được thực hiện thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế trong hai trường hợp: (i) Nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài; và (ii) Việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên của tổ chức kinh tế.
c) Đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP
Đây là một trong những điểm mới của Luật đầu tư 2020
Các hợp đồng PPP thường là các hợp đồng đòi hỏi vốn lớn, yêu cầu nhà đầu tư phải có năng lực, trình độ và nền tảng khoa học kỹ thuật, để có thể kết hợp tốt với nhà nước cùng thực hiện một dự án phục vụ phát triển kinh tế, xã hội và cộng đồng. Các quy định chi tiết lĩnh vực, điều kiện, thủ tục thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP được cụ thể hóa tại Nghị định 15/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
d)Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC
Đây là mô hình đầu tư truyền thống, có từ thời Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn có những điểm mới trong quy định về đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC trong Luật đầu tư 2020. Theo đó, luật phân định hai trường hợp: (i) Các hợp đồng BCC được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự, và (ii) Các hợp đồng BCC được ký kết giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thủ tục cấp GCNĐKĐT theo quy định của Luật đầu tư.
Do BCC là một hình thức đầu tư dựa trên hợp đồng mà không thành lập một pháp nhân, nên việc quản lý điều hành một dự án BCC hoàn toàn do các bên liên quan thỏa thuận. Luật đầu tư 2014 đã quy định: “các bên tham gia hợp đồng BCC thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng BCC. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên thỏa thuận”.
7.2. Thủ tục quyết định chủ trương đầu tư
Quyết định về chủ trương đầu tư là một trong những quy định mới. Quy định này buộc nhà đầu tư phải xin chấp thuận chủ trương từ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Quốc hội, Chính phủ và UBND cấp tỉnh trước khi thực hiện dự án đầu tư. Ý nghĩa của các quy định này, ngoài việc phân cấp, phân quyền cho từng cơ quan nhà nước trong quản lý hoạt động đầu tư, còn để giám sát các hoạt động và dự án của nhà đầu tư, đảm bảo việc đầu tư kinh doanh đi đúng hướng, không gây phương hại hoặc gây ảnh hưởng đến những vấn đề như môi trường, sức khỏe cộng đồng, kinh tế vĩ mô hay các vấn đề xã hội khác…
Thực tế tại Điều 47.3 Luật đầu tư cũ năm 2005 đã có quy định về xin cấp quyết định về chủ trương đầu tư “đối với dự án quan trọng quốc gia thì Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư và quy định tiêu chuẩn dự án, Chính phủ quy định trình tự, thủ tục thẩm tra và cấp GCNĐT”. Với quy định này, nhà đầu tư thực sự không biết làm thế nào để xin chấp thuận chủ trương đầu tư từ Quốc hội. Vì thế, Luật đầu tư 2020 đã tách riêng quy trình xin cấp quyết định chủ trương đầu tư từ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và UBND cấp tỉnh cho một số dự án tùy theo tính chất, đặc điểm và số vốn đầu tư. Quy trình thẩm tra xin cấp chủ trương đầu tư theo Luật đầu tư 2020 cũng được coi là quy trình xem xét cấp GCNĐKĐT của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Với tinh thần này, sau khi hồ sơ của nhà đầu tư được Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và UBND cấp tỉnh thông qua bằng quyết định chủ trương đầu tư, thì quy trình xin cấp GCNĐKĐT sau đó được rút ngắn đáng kể (chỉ 5 ngày làm việc kể từ ngày cơ quan đăng ký đầu tư nhận được quyết định chủ trương đầu tư) và về nguyên tắc cơ quan đăng ký đầu tư không “duyệt” lại hồ sơ xin cấp phép nữa.
a) Quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội
- Dự án ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, bao gồm: nhà máy điện hạt nhân, chuyển mục đích sử dụng đất vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học từ 50 héc ta trở lên; rừng phòng hộ đầu nguồn từ 50 héc ta trở lên; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng, lấn biển, bảo vệ môi trường từ 500 héc ta trở lên; rừng sản xuất từ 1.000 héc ta trở lên;
- Dự án sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên với quy mô từ 500 héc ta trở lên;
- Dự án di dân tái định cư từ 20.000 người trở lên ở miền núi, từ 50.000 người trở lên ở các vùng khác;
- Dự án có yêu cầu phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định.
Như vậy các dự án cần chấp thuận chủ trương của Quốc hội đều là các dự án lớn, có ảnh hưởng nhất định tới môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên, ảnh hưởng tới các vấn đề xã hội nói chung hoặc có sử dụng một diện tích đất rất lớn. Để được Quốc hội cấp quyết định chủ trương đầu tư cho các dự án đã nêu ở trên, nhà đầu tư cần lập hồ sơ nộp cho cơ quan đăng ký đầu tư nơi thực hiện dự án đầu tư. Hồ sơ bao gồm:
- Các tài liệu, giấy tờ về dự án đầu tư gồm:
- Văn bản đề nghị thực hiện dự án đầu tư;
- Giấy tờ pháp lý của chủ đầu tư (Giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu, giấy phép thành lập…);
- Đề xuất dự án đầu tư bao gồm các nội dung: nhà đầu tư thực hiện dự án, mục tiêu đầu tư, quy mô đầu tư, vốn đầu tư và phương án huy động vốn, địa điểm, thời hạn, tiến độ đầu tư, nhu cầu về lao động, đề xuất hưởng ưu đãi đầu tư, đánh giá tác động, hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án;
- Tài liệu chứng minh năng lực tài chính của nhà đầu tư (báo cáo tài chính, cam kết cho vay…);
- Đề xuất nhu cầu sử dụng đất hoặc thỏa thuận thuê địa điểm hoặc tài liệu khác xác nhận nhà đầu tư có quyền sử dụng địa điểm để thực hiện dự án đầu tư;
- Giải trình về sử dụng công nghệ đối với dự án gồm các nội dung: tên công nghệ, xuất xứ công nghệ, sơ đồ quy trình công nghệ; thông số kỹ thuật chính, tình trạng sử dụng của máy móc, thiết bị và dây chuyền công nghệ chính;
- Hợp đồng BCC đối với dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC.
- Phương án giải phóng mặt bằng, di dân, tái định cư (nếu có);
- Đánh giá sơ bộ tác động môi trường, các giải pháp bảo vệ môi trường;
- Đánh giá tác động, hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án;
- Đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù (nếu có).
Khi nhận đủ hồ sơ, cơ quan đăng ký đầu tư gửi hồ sơ lên BKHĐT để báo cáo Thủ tướng thành lập Hội đồng thẩm định nhà nước. Sau khi xem xét và thẩm định hồ sơ, Hội đồng thẩm định nhà nước lập báo cáo thẩm định trình Chính phủ. Chậm nhất 60 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, Chính phủ gửi Hồ sơ quyết định chủ trương đầu tư đến cơ quan chủ trì thẩm tra của Quốc hội kèm theo tờ trình xin quyết định chủ trương, báo cáo thẩm định và các tài liệu có liên quan. Sau khi thẩm tra một lần nữa, Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư.
Như vậy, trong toàn bộ quá trình xin cấp quyết định chủ trương đầu tư, nhà đầu tư không phải thực hiện quy trình thẩm định riêng rẽ và phải phối hợp với từng cơ quan liên quan để giải trình hồ sơ. Cơ quan đăng ký đầu tư và BKHĐT, với tư cách là cơ quan đầu mối giải quyết hồ sơ cấp phép của nhà đầu tư sẽ phải chủ động báo cáo để thành lập các cơ quan thẩm định, xem xét hồ sơ của nhà đầu tư để cấp phép theo đúng quy định.
Sơ đồ minh họa quy trình xin cấp quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội
b)Quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư với các dự án sau đây:
- Dự án không phân biệt nguồn vốn thuộc một trong hai trường hợp: (i) Di dân tái định cư từ 10.000 người trở lên ở miền núi, từ 20.000 người trở lên ở vùng khác, (ii) Xây dựng và kinh doanh cảng hàng không; vận tải hàng không; (iii) Xây dựng và kinh doanh cảng biển quốc gia, (iv) Thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí, (v) Hoạt động kinh doanh cá cược, đặt cược, casino, (vi) Sản xuất thuốc lá điếu, (vi) Phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu chức năng trong khu kinh tế, (vii) Xây dựng và kinh doanh sân gôn;
- Các dự án không hợp trường hợp nêu ở trên nhưng có quy mô vốn đầu tư từ 5.000 tỉ đồng trở lên.
- Dự án của nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực kinh doanh vận tải biển, kinh doanh dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng, trồng rừng, xuất bản, báo chí, thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ 100% vốn nước ngoài;
- Dự án khác thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư hoặc quyết định đầu tư của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của pháp luật.
Để được cấp quyết định chủ trương đầu tư từ Thủ tướng Chính phủ, nhà đầu tư phải chuẩn bị hồ sơ để nộp cho cơ quan đăng ký đầu tư nơi thực hiện dự án. Bộ hồ sơ gồm:
- Các tài liệu, giấy tờ về dự án đầu tư gồm: văn bản đề nghị thực hiện dự án đầu tư; Giấy tờ pháp lý của chủ đầu tư (Giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu, giấy phép thành lập…; Đề xuất dự án đầu tư; Tài liệu chứng minh năng lực tài chính của nhà đầu tư (báo cáo tài chính, cam kết cho vay…); Đề xuất nhu cầu sử dụng đất hoặc thỏa thuận thuê địa điểm hoặc tài liệu khác xác nhận nhà đầu tư có quyền sử dụng địa điểm để thực hiện dự án đầu tư; Giải trình về sử dụng công nghệ đối với dự án gồm các nội dung: tên công nghệ, xuất xứ công nghệ, sơ đồ quy trình công nghệ; thông số kỹ thuật chính, tình trạng sử dụng của máy móc, thiết bị và dây chuyền công nghệ chính;
- Phương án giải phóng mặt bằng, di dân, tái định cư (nếu có);
- Đánh giá sơ bộ tác động môi trường, các giải pháp bảo vệ môi trường;
- Đánh giá tác động, hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án đầu tư.
Sau khi nhận được bộ hồ sơn xin quyết định chủ trương đầu tư, cơ quan đăng ký đầu tư gửi hồ sơ cho BKHĐT và gửi hồ sơ lấy ý kiến của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ lấy ý kiến, cơ quan được lấy ý kiến có ý kiến về những nội dung thuộc phạm vi quản lý nhà nước, gửi cơ quan đăng ký đầu tư và BKHĐT. Trong thời hạn 25 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ quan đăng ký đầu tư trình UBND cấp tỉnh xem xét, có ý kiến thẩm định về hồ sơ dự án đầu tư và gửi BKHĐT. Tiếp đó, BKHĐT tổ chức thẩm định hồ sơ dự án đầu tư và lập báo cáo thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư.
Sơ đồ minh họa quy trình xin cấp quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ
c) Quyết định chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh
UBND cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án sau đây:
- Dự án được nhà nước giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu hoặc nhận chuyển nhượng; dự án có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất (trừ các dự án thực hiện tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt);
- Dự án có sử dụng công nghệ thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ.
Luật đầu tư 2020 thực hiện phân cấp, phân quyền cho UBND cấp tỉnh được xem xét cấp quyết định chủ trương đầu tư cho các dự án phần lớn liên quan đến sử dụng đất. Trước đây, nhà đầu tư vẫn phải lập dự án đầu tư để xin UBND cấp tỉnh xem xét quỹ đất trên địa bàn tỉnh để giới thiệu cho nhà đầu tư, từ đó nhà đầu tư sẽ xem xét ký hợp đồng thuê đất hoặc được giao đất theo quyết định của UBND cấp tỉnh rồi sau đó vẫn phải thực hiện thủ tục xin cấp GCNĐT cho dự án. Theo quy trình này, nhà đầu tư phải trải qua nhiều khâu thủ tục hành chính, thực hiện xin cấp phép nhiều lần, gây lãng phí, tốn kém. Để khắc phục hạn chế này, Luật đầu tư 2020 đã cho phép nhà đầu tư lập hồ sơ từ ngay khi xin cấp quyết định chủ trương từ UBND cấp tỉnh và ngay khi hồ sơ được “duyệt” việc cấp GCNĐKĐT sau đó coi như đã hoàn tất và nhà đầu tư không phải thực hiện thêm bất kỳ thủ tục nào nữa để được cấp GCNĐKĐT. Để được UBND cấp tỉnh cấp quyết định chủ trương đầu tư, nhà đầu tư phải chuẩn bị bộ hồ sơ xin ra quyết định gồm các tài liệu sau:
- Văn bản đề nghị thực hiện dự án đầu tư;
- Giấy tờ pháp lý của chủ đầu tư (Giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu, giấy phép thành lập…);
- Đề xuất dự án đầu tư;
- Tài liệu chứng minh năng lực tài chính của nhà đầu tư (báo cáo tài chính, cam kết cho vay…);
- Đề xuất nhu cầu sử dụng đất hoặc thỏa thuận thuê địa điểm hoặc tài liệu khác xác nhận nhà đầu tư có quyền sử dụng địa điểm để thực hiện dự án đầu tư;
- Giải trình về sử dụng công nghệ đối với dự án gồm các nội dung: tên công nghệ, xuất xứ công nghệ, sơ đồ quy trình công nghệ; thông số kỹ thuật chính, tình trạng sử dụng của máy móc, thiết bị và dây chuyền công nghệ chính;
- Hợp đồng BCC đối với dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC.
Nhà đầu tư nộp bộ hồ sơ kể trên cho cơ quan đăng ký đầu tư và trong thời hạn 35 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ quan đăng ký đầu tư phải thông báo kết quả cho nhà đầu tư. Quy trình, thủ tục xin quyết định chủ trương đầu tư từ UBND cấp tỉnh được thực hiện tuần tự từ việc nộp hồ sơ đến cơ quan đăng ký đầu tư, cơ quan nhà nước có liên quan, cơ quan quản lý đất đai. Sau khi tổng hợp ý kiến từ cơ quan nhà nước có liên quan, cơ quan đăng ký đầu tư lập báo cáo thẩm định trình UBND tỉnh. Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ và báo cáo thẩm định, UBND cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư, trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Sơ đồ minh họa quy trình xin cấp quyết định chủ trương đầu tư của
UBND cấp tỉnh
7.3. Thủ tục cấp, điều chỉnh và thu hồi GCNĐKĐT
Các quy định về cấp, điều chỉnh và thu hồi GCNĐKĐT là những quy định quan trọng nhất trong luật đầu tư và được nhà đầu tư lưu ý nhiều nhất. Đơn giản là trong suốt quá trình hoạt động, kể cả từ thời điểm thành lập, nhà đầu tư đều phải so chiếu các quy định có liên quan để thành lập dự án đầu tư, quản lý dự án đó và trong một số trường hợp, chấm dứt dự án đầu tư.
a)Cấp GCNĐKĐT
Thủ tục cấp GCNĐKĐT, Luật đầu tư 2020 đã tiến một bước khá dài trong việc đơn giản hóa các thủ tục đầu tư, góp phần làm giảm gánh nặng về thời gian, chi phí và công sức cho nhà đầu tư khi thiết lập dự án đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Trước đây nhà đầu tư phải thực hiện 2 quy trình cấp phép cơ bản gồm: (i) Đăng ký cấp GCNĐT, (ii) Thẩm tra cấp GCNĐT (đó là chưa kể một số dự án phải xin chấp thuận chủ trương đầu tư từ Quốc hội). Tuy nhiên, Luật đầu tư 2014 đã cải thiện quy trình cấp phép, giảm thiểu thủ tục, theo đó quy trình thẩm tra dự án đầu tư bị bãi bỏ. Nhà đầu tư chỉ cần xem xét thực hiện một trong hai quy trình sau đây tùy thuộc vào tính chất, quy mô, mục đích của dự án: (i) Cấp GCNĐKĐT trong hầu hết các trường hợp thông thường và (ii) Cấp GCNĐKĐT đối với dự án thuộc diện phải xin chấp thuận chủ trương đầu tư. Điều 36 Luật đầu tư 2014 quy định các trường hợp phải thực hiện thủ tục cấp GCNĐKĐT bao gồm:
- Dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài;
- Dự án đầu tư của tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ 51% vốn điều lệ trở lên.
Cũng theo quy định tại Điều 36 Luật đầu tư 2020 thì các trường hợp sau đây không phải thực hiện thủ tục cấp GCNĐKĐT:
- Dự án đầu tư của nhà đầu tư trong nước;
- Dự án đầu tư của tổ chức kinh tế có vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài dưới 51%;
- Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế.
Như vậy, điểm mới của Luật đầu tư 2020 là việc bãi bỏ cấp GCNĐKĐT cho các dự án đầu tư của nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên nếu nhà đầu tư trong nước có nhu cầu thì cơ quan có thẩm quyền sẽ cấp GCNĐKĐT trên cơ sở đề nghị của nhà đầu tư. Đối với các dự án thuộc diện phải xin cấp quyết định chủ trương đầu tư, thì nhà đầu tư chỉ được thực hiện thủ tục cấp GCNĐKĐT sau khi được cấp quyết định chủ trương đầu tư.
Để được cấp GCNĐKĐT, nhà đầu tư chuẩn bị bộ hồ sơ xin cấp phép để nộp cho cơ quan đăng ký đầu tư. Đối với các dự án thuộc diện phải xin cấp quyết định chủ trương đầu tư từ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hay UBND cấp tỉnh, thì việc cấp phép được thực hiện rất nhanh gọn, chỉ trong 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản quyết định chủ trương đầu tư, do trong quá trình xem xét cấp quyết định chủ trương đầu tư, cơ quan có thẩm quyền của nhà nước (bao gồm cả cơ quan đăng ký đầu tư) đã thẩm định rất kỹ hồ sơ xin cấp phép của chủ đầu tư. Do vậy việc rút ngắn thời gian cấp phép là để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, tránh việc sách nhiễu, phiền hà cho doanh nghiệp. Đối với các trường hợp xin cấp GCNĐKĐT còn lại, tức là các trường hợp không phải xin quyết định chủ trương đầu tư, nhà đầu tư sẽ được cấp GCNĐKĐT trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nộp đầy đủ bộ hồ sơ cho cơ quan đăng ký đầu tư. Đây cũng là điểm mới tiến bộ đáng kể của Luật đầu tư 2014. Bởi lẽ, theo Luật Đầu tư 2005 việc xin cấp phép đầu tư được phân làm hai trường hợp là: (i) đăng ký đầu tư (có thời hạn cấp phép là 15 ngày làm việc) và (ii) Thẩm tra dự án đầu tư (có thời hạn là 45 ngày làm việc kể từ ngày nộp đầy đủ bộ hồ sơ). Như vậy, ngoài việc rút ngắn thời hạn cấp phép, Luật đầu tư 2020 chỉ còn quy định về một loại thủ tục: là đăng ký đầu tư. Điều này giải thích cho việc ra đời của thuật ngữ GCNĐKĐT thay cho thuật ngữ tương ứng trong luật cũ vốn chỉ là GCNĐT.
Về thẩm quyền cấp GCNĐKĐT, Trước đây UBND cấp tỉnh cấp GCNĐT cho hầu hết các dự án đầu tư, trừ các dự án được thành lập trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, vốn thuộc quyền quản lý và cấp phép của các bản quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Luật đầu tư 2020, đã có nhiều cải tiến quan trọng khi phân cấp về thẩm quyền cấp GCNĐKĐT :
- Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế tiếp nhận, cấp, điều chỉnh, thu hồi GCNĐKĐT đối với các dự án đầu tư trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
- Sở Kế hoạch và Đầu tư tiếp nhận, cấp, điều chỉnh, thu hồi GCNĐKĐT đối với các dự án đầu tư ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
- Sở Kế hoạch và Đầu tư nơi nhà đầu tư đặt hoặc dự kiến đặt trụ sở chính hoặc văn phòng điều hành để thực hiện dự án đầu tư tiếp nhận, cấp, điều chỉnh, thu hồi GCNĐKĐT đối với dự án đầu tư sau đây: (i) Dự án đầu tư thực hiện trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (ii) Dự án đầu tư thực hiện ở trong và ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế.
Với việc phân cấp, phân quyền cho các Sở Kế hoạch Đầu tư trong khâu cấp phép, Luật đầu tư 2014 hướng đến việc quy định linh hoạt, giúp quy trình cấp phép được thực hiện nhanh chóng hơn. Trước đây, hồ sơ cấp phép của nhà đầu tư phải đi qua nhiều cửa, trước tiên là Sở Kế hoạch đầu tư, Sau khi Sở Kế hoạch Đầu tư có ý kiến và làm tờ trình xin cấp phép, UBND cấp tỉnh mới xem xét để ban hành GCNĐT cho nhà đầu tư và thông qua Sở Kế hoạch Đầu tư để trả giấy chứng nhận đó. Theo Luật đầu tư 2014, nhà đầu tư chỉ cần liên hệ và làm việc “một cửa”, “một đầu mối” với Sở Kế hoạch và Đầu tư để được cấp phép mà không cần chờ đợi cơ quan này làm việc với cấp trên như trước đây.
b)Điều chỉnh dự án đầu tư
Trong quá trình hoạt động của mình, nếu có bất kỳ thay đổi nào liên quan đến nội dung GCNĐKĐT (thay đổi về vốn, về nhà đầu tư, về dự án đầu tư, về người đại diện theo pháp luật…), thì nhà đầu tư đều phải làm thủ tục để điều chỉnh GCNĐKĐT. Tùy vào nội dung điều chỉnh mà nhà đầu tư phải chuẩn bị bộ hồ sơ xin điều chỉnh để nộp cho cơ quan đăng ký đầu tư. Về cơ bản, hồ sơ cần có các giấy tờ sau:
- Văn bản đề nghị điều chỉnh GCNĐKĐT;
- Báo cáo tình hình triển khai dự án đầu tư đến thời điểm đề nghị điều chỉnh dự án đầu tư;
- Quyết định về việc điều chỉnh dự án đầu tư của nhà đầu tư;
- Các tài liệu liên quan đến các nội dung điều chỉnh.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ xin điều chỉnh dự án đầu tư, cơ quan đăng ký đầu tư điều chỉnh GCNĐKĐT trong thời hạn 10 ngày làm việc, trường hợp từ chối điều chỉnh thì phải thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư và nêu rõ lý do. Đối với các dự án thuộc diện phải quyết định chủ trương đầu tư, khi điều chỉnh dự án đầu tư liên quan đến mục tiêu, địa điểm đầu tư, công nghệ chính, tăng hoặc giảm vốn đầu tư trên 10% tổng vốn đầu tư, thời hạn thực hiện, thay đổi nhà đầu tư hoặc thay đổi điều kiện đối với nhà đầu tư (nếu có), cơ quan đăng ký đầu tư thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư trước khi điều chỉnh GCNĐKĐT.
Trường hợp đề xuất của nhà đầu tư về việc điều chỉnh nội dung GCNĐKĐT dẫn đến dự án đầu tư thuộc diện phải quyết định chủ trương đầu tư, cơ quan đăng ký đầu tư thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư trước khi điều chỉnh GCNĐKĐT. Như vậy, thời gian cấp điều chỉnh GCNĐKĐT đã được giảm từ 15 ngày làm việc xuống còn 10 ngày làm việc.
c)Thu hồi GCNĐKĐT
Trước đâu quy định về thu hồi GCNĐT rất không cụ thể theo đó là“Dự án được cấp GCNĐT tư sau mười hai tháng mà nhà đầu tư không triển khai hoặc không có khả năng thực hiện theo tiến độ đã cam kết và không có lý do chính đáng thì bị thu hồi GCNĐT”. Trên thực tế cho thấy có nhiều trường cũng có thể dẫn đến việc thu hồi GCNĐT (nay là GCNĐKĐT) như: Các nhà đầu tư thỏa thuận chấm dứt dự án đầu tư, thực hiện thanh lý dự án và trả lại giấy phép cho cơ quan cấp quản lý nhà nước về đầu tư. Khi đó sẽ không thể xử lý được trong khuôn khổ quy định của Luật đầu tư 2005. Vì vậy, Luật đầu tư 2014 quy định cơ quan đăng ký đầu tư thu hồi GCNĐKĐT trong các trường hợp dự án đầu tư chấm dứt hoạt động, gồm:
- Nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động của dự án;
- Theo các điều kiện chấm dứt hoạt động được quy định trong hợp đồng, điều lệ doanh nghiệp;
- Hết thời hạn hoạt động của dự án đầu tư;
- Dự án đầu tư thuộc một trong các trường hợp phải ngừng hoạt động mà nhà đầu tư không có khả năng khắc phục điều kiện ngừng hoạt động;
- Nhà đầu tư bị Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án đầu tư hoặc không được tiếp tục sử dụng địa điểm đầu tư và không thực hiện thủ tục điều chỉnh địa điểm đầu tư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có quyết định thu hồi đất hoặc không được tiếp tục sử dụng địa điểm đầu tư;
- Dự án đầu tư đã ngừng hoạt động và hết thời hạn 12 tháng kể từ ngày ngừng hoạt động, cơ quan đăng ký đầu tư không liên lạc được với nhà đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của nhà đầu tư;
- Sau 12 tháng mà nhà đầu tư không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện dự án theo tiến độ đăng ký với cơ quan đăng ký đầu tư và không thuộc trường hợp được giãn tiến độ thực hiện dự án đầu tư theo quy định;
- Theo bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài.
Việc thu hồi GCNĐKĐT được thực hiện trên cơ sở chấm dứt dự án đầu tư, vì nhiều lý do, bao gồm cả chủ quan (do nhà đầu tư tự quyết định) hoặc khách quan (tòa án, trọng tài quyết định). Trong các trường hợp này, nhà đầu tư thường phải thực hiện thanh lý dự án đầu tư trong khi nhà nước thu hồi lại đất cho thuê để thực hiện dự án.
7.4. Triển khai thực hiện dự án đầu tư
Việc triển khai thực hiện dự án đầu tư bao gồm các nội dung liên quan đến chuẩn bị mặt bằng, đất đai cho dự án, giám định và nhập khẩu các trang thiết bị, máy móc, dây chuyền sản xuất, chuyển nhượng dự án trong một số trường hợp, giãn tiến độ thực hiện dự án hoặc tạm ngừng, ngừng hoạt động và chấm dứt dự án.
a)Bảo đảm thực hiện dự án đầu tư
Bảo đảm thực hiện dự án đầu tư là một quy định mới trong Luật đầu tư 2020. Đối với các dự án mà nhà nước giao đất, cho nhà đầu tư thuê đất để triển khai kế hoạch sản xuất, kinh doanh, thì nhà đầu tư phải thực hiện nghĩa vụ ký quỹ để đảm bảo nghĩa vụ thực hiện dự án. Sở dĩ có quy định này là vì trong quá khứ, rất nhiều nhà đầu tư sau được nhà nước giao đất, cho thuê đất và hỗ trợ mặt bằng để thực hiện sản xuất kinh doanh, nhưng vì nhiều lý do, đã không thể triển khai dự án đầu tư đúng kế hoạch, bỏ mặc đất đai trong tình trạng không sử dụng, thậm chí hoang hóa, dẫn đến lãng phí các nguồn lực hỗ trợ đầu tư, gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung.
b)Thời hạn hoạt động của dự án
Trước đây thời hạn hoạt động của dự án đầu tư không quá 50 năm. Trường hợp đặc biệt được Chính phủ cho phép thì thời hạn dự án đầu tư được kéo dài đến mức tối đa là 70 năm. Luật đầu tư 2020 đã làm rõ hơn khi quy định dự án đầu tư được thực hiện trên địa bàn đầu tư khác nhau thì có thời hạn khác nhau. Nếu dự án đầu tư được thiết lập trong khu kinh tế thì thời hạn của dự án đó không quá 70 năm, trong khi nếu thiết lập ngoài khu kinh tế thì thời hạn tối đa là 50 năm. Các dự án đầu tư thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn hoặc dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm thì thời hạn dài hơn nhưng không quá 70 năm. Đối với dự án đầu tư được nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng nhà đầu tư chậm được bàn giao đất thì thời gian Nhà nước chậm bàn giao đất không tính vào thời hạn hoạt động của dự án đầu tư.
c) Giám định máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ
Nhà đầu tư có thể thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam thông qua góp vốn bằng máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ hoặc thực hiện nhập khẩu từ nước ngoài để tính vào vốn đầu tư của dự án. Luật đầu tư 2020 quy định nhà đầu tư chịu trách nhiệm bảo đảm chất lượng máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ để thực hiện dự án đầu tư theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp cần thiết để đảm bảo thực hiện quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ hoặc để xác định căn cứ tính thuế, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền yêu cầu thực hiện giám định độc lập chất lượng và giá trị của máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ.
d)Chuyển nhượng dự án đầu tư
Trong quá trình hoạt động, nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án đầu tư của mình cho nhà đầu tư khác. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng phải đáp ứng một số điều kiện nhất định gồm:
- Không thuộc một trong các trường hợp bị chấm dứt hoạt động;
- Đáp ứng điều kiện đầu tư áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng dự án thuộc ngành, nghề đầu tư có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài;
- Tuân thủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về đất đai, pháp luật về kinh doanh bất động sản trong trường hợp chuyển nhượng dự án gắn với chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
- Điều kiện quy định tại GCNĐKĐT hoặc theo quy định khác của pháp luật có liên quan (nếu có).
Đối với các trường hợp chuyển nhượng dự án thuộc diện cấp GCNĐKĐT, nhà đầu tư nộp hồ sơ theo quy định về hướng dẫn chuẩn bị hồ sơ xin cấp GCNĐKĐT kèm theo hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư để điều chỉnh nhà đầu tư thực hiện dự án.
e)Giãn tiến độ dự án đầu tư, tạm ngừng, ngừng hoạt động và chấm dứt dự án đầu tư
Về giãn tiến độ đầu tư, Luật đầu tư 2020 quy định nhà đầu tư phải đề xuất bằng văn bản cho cơ quan đăng ký đầu tư khi giãn tiến độ đối với dự án được cấp GCNĐKĐT hoặc quyết định chủ trương đầu tư, cho các hạng mục sau:
- Giãn tiến độ thực hiện vốn đầu tư;
- Giãn tiến độ xây dựng và đưa công trình vào hoạt động;
- Giãn tiến độ thực hiện các mục tiêu hoạt động của dự án đầu tư.
Khi giãn tiến độ thực hiện dự án đầu tư, nhà đầu tư phải xin chấp thuận từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua giải trình bằng văn bản nộp lên cho cơ quan đăng ký đầu tư. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đề xuất, cơ quan đăng ký đầu tư có ý kiến bằng văn bản về việc giãn tiến độ đầu tư. Tổng thời gian giãn tiến độ đầu tư không quá 24 tháng. Trường hợp bất khả kháng thì thời gian khắc phục hậu quả bất khả kháng không tính vào thời gian giãn tiến độ đầu tư.
Về tạm ngừng dự án đầu tư, Luật đầu tư 2020 cho phép nhà đầu tư được tạm ngừng hoạt động của dự án đầu tư nhưng “phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký đầu tư. Trường hợp tạm ngừng hoạt động của dự án đầu tư do bất khả kháng thì nhà đầu tư được miễn tiền thuê đất trong thời gian tạm ngừng hoạt động để khắc phục hậu quả do bất khả kháng gây ra”.
Ngoài ra, Luật đầu tư 2020 còn quy định trong các trường hợp sau đây, cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư quyết định ngừng hoặc ngừng một phần hoạt động của dự án đầu tư:
- Để bảo vệ di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia theo quy định của Luật di sản văn hóa;
- Để khắc phục vi phạm môi trường theo đề nghị của cơ quan nhà nước quản lý về môi trường;
- Để thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn lao động theo đề nghị của cơ quan nhà nước quản lý về lao động;
- Theo quyết định, bản án của Tòa án, Trọng tài;
- Nhà đầu tư không thực hiện đúng nội dung GCNĐKĐT và đã bị xử lý vi phạm hành chính nhưng tiếp tục vi phạm.
Nếu việc thực hiện dự án đầu tư có nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia thì Thủ tướng Chính phủ có quyền ra quyết định ngừng một phần hoặc toàn bộ hoạt động của dự án đầu tư trên cơ sở đề nghị của BKHĐT.
(Về việc chấm dứt dự án đầu tư, xem thêm Mục III.3.c – Thu hồi GCNĐKĐT ở trên).
f)Điều hành hoạt động của BCC
Như đã trình bày ở trên, BCC là một mô hình đầu tư không đầy đủ, tức là một hình thức đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trên cơ sở một hợp đồng mà không thành lập một pháp nhân (thường là công ty). Vì vậy, toàn bộ việc quản lý, điều hành hoạt động của BCC phải thực hiện thông qua cơ chế trao đổi, đàm phán và thống nhất giữa những nhà đầu tư trong chính BCC đó.
Nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài thường gặp khó khăn trong điều hành hoạt động BCC nếu họ không có cơ sở thường trú hoặc hiện diện thương mại tại Việt Nam. Để quản lý BCC một cách có hiệu quả, kế thừa quy định trước đây Luật đầu tư 2020 tiếp tục quy định về việc thiết lập cơ chế quản lý BCC thông qua văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng BCC được thành lập văn phòng điều hành tại Việt Nam để thực hiện hợp đồng. Địa điểm văn phòng điều hành do nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng BCC quyết định theo yêu cầu thực hiện hợp đồng.
Văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng BCC có con dấu; được mở tài khoản, tuyển dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi quyền và nghĩa vụ quy định tại hợp đồng BCC và Giấy chứng nhận đăng ký thành lập văn phòng điều hành. Để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập, nhà đầu tư chuẩn bị hồ sơ gồm các giấy tờ sau đây và nộp tại cơ quan đăng ký đầu tư:
- Văn bản đăng ký thành lập văn phòng điều hành;
- Quyết định của nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng BCC về việc thành lập văn phòng điều hành;
- Bản sao quyết định bổ nhiệm người đứng đầu văn phòng điều hành;
- Bản sao hợp đồng BCC.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan đăng ký đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng điều hành cho nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng BCC. Văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng BCC có thể được chấm dứt hoạt động dựa trên quyết định của nhà đầu tư. Trong trường hợp này, nhà đầu tư phải gửi hồ sơ thông báo chấm dứt hoạt động của văn phòng cho cơ quan đăng ký đầu tư trong vòng 7 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định chấm dứt hoạt động của văn phòng điều hành. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan đăng ký đầu tư quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng điều hành.
8. Đầu tư ra nước ngoài
Luật đầu tư 2005 là văn bản luật đầu tiên đã dành hẳn một chương (Chương VIII) để quy định về đầu tư ra nước ngoài. Các quy định này đã đặt nền móng ban đầu cho hành lang pháp lý về hoạt động đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài để rồi tiếp sau đó Chính phủ ban hành nghị định 78/2006/NĐ-CP về hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Tuy vậy, cả Luật đầu tư 2005 và Nghị định 78/2006/NĐ-CP đều quy định về hoạt động này một cách khá sơ lược và không đầy đủ. Chẳng hạn luật đầu tư cũ đã không cụ thể hóa được các hình thức đầu tư ra nước ngoài để nhà đầu tư có thể tham khảo và thiết kế mô hình đầu tư. Tương tự, luật cũ cũng không quy định rõ về thủ tục đầu tư ra nước ngoài dẫn đến các khó khăn cho nhà đầu tư trong quá trình xin cấp phép, thực hiện các thủ tục hành chính tại cơ quan có thẩm quyền liên quan.
Khắc phục những nhược điểm này, Luật có một chương quy định về đầu tư ra nước ngoài (Chương V) trong đó làm rõ: (i) Các quy định chung về đầu tư ra nước ngoài, (ii) Thủ tục quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài, (iii) Thủ tục cấp, điều chỉnh và chấm dứt hiệu lực của GCNĐKĐT ra nước ngoài và (iv) Triển khai hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Trong đó các điểm mới bao gồm: (i) Đơn giản hóa quy trình cấp GCNĐKĐT ra nước ngoài, (ii) Bổ sung quy định về hình thức đầu tư ra nước ngoài, (iii) Làm rõ trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc huy động vốn, (iv) Bổ sung quy định về thẩm quyền quyết định đầu tư và (v) Bổ sung cơ chế giám sát và quản lý việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài.
8.1. Quy định chung
Đầu tư ra nước ngoài hiện nay là một kênh đầu tư quan trọng khi sức ép cạnh tranh của việc sản xuất, kinh doanh thương mại trong nước tăng cao, nhu cầu tìm kiếm thị trường mới luôn là động lực thôi thúc, hấp dẫn nhà đầu tư, trong khi việc tối đa hóa lợi nhuận bằng nhiều hình thức đầu tư khác nhau luôn là một trong những tôn chỉ hoạt động của doanh nghiệp. Tuy vậy, việc đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ một số quy định chung.
Thứ nhất, về nguyên tắc đầu tư ra nước ngoài, Luật quy định nhà nước khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Tuy nhiên, khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư phải tuân thủ các quy định của Luật đầu tư và các quy định pháp luật khác có liên quan như quản lý ngoại hối, thương mại v.v. đồng thời tuân thủ pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
Thứ hai, về hình thức đầu tư ra nước ngoài, trước đây pháp luật về đầu tư chỉ cho phép nhà đầu tư tại Việt Nam thực hiện đầu tư ra nước ngoài thông qua hình thức đầu tư trực tiếp, tức là bỏ vốn đầu tư để tạo lập tổ chức kinh tế hoặc góp vốn và tham gia trực tiếp vào công tác quản lý điều hành của một doanh nghiệp hay tổ chức kinh tế tại nước tiếp nhận đầu tư. Các hình thức đầu tư gián tiếp khác như mua cổ phần, vốn góp và giấy tờ có giá khác từ Việt Nam vào các công ty tại nước ngoài hay thông qua các định chế tài chính trung gian chưa được tính đến trong luật đầu tư cũ. Theo Luật đầu tư 2014, nhà đầu tư được đầu tư ra nước ngoài dưới rất nhiều hình tức khác nhau, không phân biệt đầu tư trực tiếp hay gián tiếp, không đặt ra vấn đề phải “tham gia trực tiếp” vào công tác quản lý và điều hành tổ chức mà mình đầu tư vào. Cụ thể nhà đầu tư được phép:
- Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư;
- Thực hiện hợp đồng BCC ở nước ngoài;
- Mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở nước ngoài để tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài;
- Mua, bán chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài;
- Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
Về nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài, Luật quy định “Nhà đầu tư chịu trách nhiệm góp vốn và huy động các nguồn vốn để thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Việc vay vốn bằng ngoại tệ, chuyển vốn đầu tư bằng ngoại tệ phải tuân thủ điều kiện và thủ tục theo quy định của pháp luật về ngân hàng, về các tổ chức tín dụng, về quản lý ngoại hối”. Như vậy, về cơ bản, nhà đầu tư phải tự huy động và cân đối các nguồn vốn khác nhau để thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài. Tuy vậy, nhà đầu tư cũng có thể nhận trợ giúp của ngân hàng hay các tổ chức tín dụng tại Việt Nam thông qua các khoản vay để thực hiện dự án đầu tư.
8.2. Thủ tục quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài
Xin quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài là một điểm mới trong quy định về đầu tư ra nước ngoài của Luật. Theo đó thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài thuộc về Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, (chỉ áp dụng với một số dự án đặc thù có vốn đầu tư lớn hoặc trong các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh quan trọng, có ảnh hưởng nhất định tới kinh tế – xã hội). Việc bổ sung thủ tục liên quan đến cấp quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài còn để phù hợp với các quy định tương tự áp dụng cho các dự án đầu tư trong nước, nhằm tạo ra một chỉnh thể thống nhất và một hành lang pháp lý bình đẳng, đồng bộ cho tất cả các chủ thể đầu tư kinh doanh.
a) Quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài của Quốc hội
Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài đối với các dự án đầu tư sau đây:
- Dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 20.000 tỷ đồng trở lên;
- Dự án yêu cầu áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định.
Để được Quốc hội xem xét, cấp quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư cần chuẩn bị bộ hồ sơ xin cấp phép gửi cho BKHĐT. Bộ hồ sơ bao gồm:
- Văn bản đăng ký đầu tư ra nước ngoài;
- Hồ sơ pháp lý của nhà đầu tư (chứng minh nhân dân, thẻ căn cước, hộ chiếu, giấy phép thành lập…);
- Đề xuất dự án đầu tư gồm: mục tiêu, quy mô, hình thức, địa điểm đầu tư; xác định sơ bộ vốn đầu tư, phương án huy động vốn, cơ cấu nguồn vốn; tiến độ thực hiện dự án, các giai đoạn đầu tư (nếu có); phân tích sơ bộ hiệu quả đầu tư của dự án;
- Tài liệu chứng minh năng lực tài chính của nhà đầu tư: báo cáo tài chính 02 năm gần nhất của nhà đầu tư; cam kết hỗ trợ tài chính của công ty mẹ; cam kết hỗ trợ tài chính của tổ chức tài chính; bảo lãnh về năng lực tài chính của nhà đầu tư; tài liệu khác chứng minh năng lực tài chính của nhà đầu tư;
- Cam kết tự cân đối nguồn ngoại tệ hoặc văn bản của tổ chức tín dụng được phép cam kết thu xếp ngoại tệ cho nhà đầu tư;
- Quyết định đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư;
- Đối với dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, khoa học và công nghệ, nhà đầu tư nộp văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đáp ứng điều kiện đầu tư ra nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, Luật chứng khoán, Luật khoa học và công nghệ, Luật kinh doanh bảo hiểm.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ dự án đầu tư, BKHĐT báo cáo Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội đồng thẩm định nhà nước. Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày thành lập, Hội đồng thẩm định nhà nước tổ chức thẩm định và lập báo cáo thẩm định. Chậm nhất 60 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, Chính phủ gửi Hồ sơ quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài đến cơ quan chủ trì thẩm tra của Quốc hội. Sau đó, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư ra nước ngoài.
Sơ đồ minh họa quy trình xin cấp quyết định chủ trương đầu tư
ra nước ngoài của Quốc hội
b) Quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài của Thủ tướng Chính phủ
Trừ các trường hợp dự án đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền cấp quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội thì Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài cho các dự án sau đây:
- Dự án thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 400 tỷ đồng trở lên;
- Dự án đầu tư không thuộc trường hợp quy định ngay trên nhưng có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 800 tỷ đồng trở lên.
Để được Thủ tướng Chính phủ xem xét, cấp quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư phải chuẩn bị bộ hồ sơ xin cấp phép, tương tự như hồ sơ xin cấp quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, BKHĐT gửi hồ sơ lấy ý kiến thẩm định của cơ quan nhà nước có liên quan. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ quan được lấy ý kiến có ý kiến thẩm định về những nội dung thuộc thẩm quyền quản lý. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, BKHĐT tổ chức thẩm định và lập báo cáo thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ. Sau đó, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét, quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài.
Sơ đồ minh họa quy trình thủ tục xin cấp quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài của Thủ tướng Chính phủ
8.3. Thủ tục cấp, điều chỉnh và chấm dứt hiệu lực của GCNĐKĐT ra nước ngoài
Do quy trình, thủ tục đầu tư ra nước ngoài chưa được thật cụ thể, rõ ràng trong Luật đầu tư 2005 và Nghị định 78/2006/NĐ-CP nên trong một thời dài, nhà đầu tư gặp rất nhiều trở ngại trong quá trình xin cấp phép. Chẳng hạn, pháp luật cũ quy định BKHĐT làm đầu mối cấp phép và có quyền gửi bộ hồ sơ xin cấp phép đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan để xin ý kiến thẩm định rồi tổng hợp lại trước khi ra quyết định cuối cùng. Quá trình xin ý kiến thẩm định của các cơ quan nhà nước có liên quan, trên thực tế, kéo dài lê thê, gây ảnh hưởng bất lợi cho nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, dưới góc độ quản lý, luật 2005 không quy định về trình tự, thủ tục xin quyết định chủ trương cho một số dự án đầu tư quan trọng, nên có hiện tượng cào bằng đối với tất cả các dự án mà không có sự phân cấp. Việc đầu tư ra nước ngoài được thực hiện theo một trong hai thủ tục là đăng ký đầu tư và thẩm tra đầu tư (nặng về thủ tục hành chính). Luật năm 2014 đã khắc phục phần lớn các khiếm khuyết vừa nêu bằng việc quy định rất chặt chẽ cơ chế xin cấp quyết định chủ trương đầu tư, phân định rạch ròi thời gian xin ý kiến thẩm định, rút ngắn thời gian cấp phép và xóa bỏ quy trình thẩm tra cấp giấy phép đầu tư vốn gây khó khăn, tốn kém, kéo dài cho nhà đầu tư.
a) Thủ tục cấp GCNĐKĐT ra nước ngoài
- Văn bản đăng ký đầu tư ra nước ngoài;
- Bản sao chứng minh nhân dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với nhà đầu tư là cá nhân; bản sao Giấy chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương đương khác xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư là tổ chức;
- Quyết định đầu tư ra nước ngoài của chủ đầu tư;
- Văn bản cam kết tự cân đối nguồn ngoại tệ hoặc văn bản của tổ chức tín dụng được phép cam kết thu xếp ngoại tệ cho nhà đầu tư theo quy định;
- Đối với dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, khoa học và công nghệ, nhà đầu tư nộp văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đáp ứng điều kiện đầu tư ra nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, Luật chứng khoán, Luật khoa học và công nghệ, Luật kinh doanh bảo hiểm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ theo quy định ngay trên, BKHĐT cấp GCNĐKĐT ra nước ngoài. Trường hợp từ chối cấp GCNĐKĐT ra nước ngoài thì phải thông báo cho nhà đầu tư bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Như vậy, có thể thấy rằng Luật đầu tư 2014 đã có sự cải thiện đáng kể về quy trình và thủ tục cấp GCNĐKĐT ra nước ngoài cho các dự án thông thường không yêu cầu phải có quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội hay Chính phủ. Nnhà đầu tư chỉ phải làm việc “một cửa” và trực tiếp với BKHĐT mà không cần đợi Bộ xin ý kiến các bộ, ban, ngành khác có liên quan trước khi ra quyết định cuối cùng. Luật cũng xóa bỏ việc phân định hai quy trình xin cấp phép là đăng ký đầu tư và thẩm tra đầu tư, căn cứ vào quy mô vốn của dự án đầu tư. Theo đó tất cả các dự án đầu tư chỉ cần đăng ký để xin cấp phép. Thời gian cấp phép được rút ngắn xuống khoảng thời gian ngắn (15 ngày), tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư bắt tay vào việc chuyển tiền ra nước ngoài để triển khai dự án đầu tư một cách nhanh chóng, ngay khi có giấy phép.
b) Điều chỉnh GCNĐKĐT ra nước ngoài
Khi có sự thay đổi về nhà đầu tư thực hiện dự án, địa điểm đầu tư, mục tiêu, quy mô, vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư, tiến độ đầu tư, ưu đãi đầu tư, việc sử dụng lợi nhuận để thực hiện dự án đầu tư ở nước ngoài, nhà đầu tư phải tiến hành thủ tục xin điều chỉnh GCNĐKĐT ra nước ngoài. Việc điều chỉnh GCNĐKĐT được thực hiện bằng việc nhà đầu tư nộp hồ sơ xin điều chỉnh các nội dung liên quan của giấy phép tại BKHĐT, bộ Hồ sơ bao gồm:
- Văn bản đề nghị điều chỉnh GCNĐKĐT ra nước ngoài;
- Bản sao chứng minh nhân dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với nhà đầu tư là cá nhân; bản sao Giấy chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương đương khác xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư là tổ chức;
- Báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư đến thời điểm nộp hồ sơ điều chỉnh GCNĐKĐT ra nước ngoài;
- Quyết định điều chỉnh dự án đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư;
- Bản sao GCNĐKĐT ra nước ngoài;
- Văn bản của cơ quan thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế tính đến thời điểm nộp hồ sơ trong trường hợp điều chỉnh tăng vốn đầu tư ra nước ngoài.
BKHĐT điều chỉnh GCNĐKĐT ra nước ngoài trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ quy định ở trên. Đối với các dự án thuộc diện quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài, khi điều chỉnh các nội dung có liên quan của GCNĐKĐT, BKHĐT thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài trước khi điều chỉnh GCNĐKĐT ra nước ngoài.
Trường hợp đề xuất của nhà đầu tư về việc điều chỉnh nội dung GCNĐKĐT ra nước ngoài dẫn đến dự án đầu tư thuộc diện phải quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài, BKHĐT thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài trước khi điều chỉnh GCNĐKĐT ra nước ngoài.
c) Chấm dứt dự án đầu tư ra nước ngoài
- Nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động của dự án;
- Hết thời hạn hoạt động của dự án đầu tư;
- Theo các điều kiện chấm dứt hoạt động được quy định trong hợp đồng, điều lệ doanh nghiệp;
- Nhà đầu tư chuyển nhượng toàn bộ vốn đầu tư ở nước ngoài cho nhà đầu tư nước ngoài;
- Quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp GCNĐKĐT ra nước ngoài mà dự án đầu tư không được nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận, hoặc quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày dự án đầu tư được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận mà dự án đầu tư không được triển khai;
- Quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp GCNĐKĐT mà nhà đầu tư không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện dự án theo tiến độ đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước và không thực hiện thủ tục điều chỉnh tiến độ đầu tư;
- Quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư mà nhà đầu tư không có văn bản báo cáo về tình hình hoạt động của dự án đầu tư;
- Tổ chức kinh tế ở nước ngoài bị giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư;
- Theo bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài.
Mặc dù hậu quả pháp lý của việc chấm dứt dự án đầu tư theo từng căn cứ quy định ngay trên có thể khác nhau nhưng đều dẫn đến việc là chấm dứt hiệu lực của GCNĐKĐT ra nước ngoài. Trong các trường hợp này, BKHĐT sẽ thực hiện thu hồi GCNĐKĐT ra nước ngoài của chủ đầu tư có liên quan.
8.4. Triển khai hoạt động đầu tư ở nước ngoài
Triển khai hoạt động đầu tư ở nước ngoài được hiểu là việc nhà đầu tư bắt tay vào thực hiện các hoạt động cần thiết phục vụ công tác đầu tư kinh doanh, bao gồm (i) Mở tài khoản vốn đầu tư ra nước ngoài, (ii) Chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài, (iii) Chuyển lợi nhuận về nước và (iv) Sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài.
Về mở tài khoản vốn đầu tư ra nước ngoài, Luật đầu tư 2014 quy định “Giao dịch chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài vào Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài phải được thực hiện thông qua một tài khoản vốn riêng mở tại một tổ chức tín dụng được phép tại Việt Nam và phải đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối”.
Về chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài, Luật quy định: chủ đầu tư chỉ được chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài khi đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
- Đã được cấp GCNĐKĐT ra nước ngoài;
- Hoạt động đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận hoặc cấp phép. Trường hợp pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư không quy định về việc cấp phép đầu tư hoặc chấp thuận đầu tư, nhà đầu tư phải có tài liệu chứng minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư;
- Có tài khoản vốn mở theo quy định.
Việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối, xuất khẩu, chuyển giao công nghệ và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Về việc chuyển lợi nhuận về nước, Luật đầu tư 2014 quy định “Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam”. Hết khoảng thời gian trên mà chưa chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập khác về Việt Nam, nhà đầu tư phải có văn bản báo cáo BKHĐT và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thời hạn chuyển lợi nhuận về nước được gia hạn không quá hai lần, mỗi lần không quá 06 tháng và phải được BKHĐT chấp thuận bằng văn bản.
Về việc sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài, Luật đầu tư 2014 quy định “Nhà đầu tư sử dụng lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư ở nước ngoài để tăng vốn, mở rộng hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải thực hiện thủ tục điều chỉnh GCNĐKĐT ra nước ngoài và báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, trường hợp dùng lợi nhuận thu được từ dự án đầu tư ở nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư khác ở nước ngoài thì nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục cấp GCNĐKĐT cho dự án đầu tư đó và phải đăng ký tài khoản vốn, tiến độ chuyển vốn đầu tư bằng tiền với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”.
9. Quản lý nhà nước về đầu tư và tổ chức thực hiện
Trước quy định liên quan đến quản lý nhà nước về đầu tư trong Luật đầu tư 2020 về cơ bản kế thừa các quy định Luật đầu tư năm 2014, 2005. Với vai trò tạo ra cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, Luật đầu tư 2020 đã phân định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương cũng như các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh; quy định về giám sát, đánh gía các hoạt động đầu tư kinh doanh; thực hiện công bố thông tin và làm rõ cơ chế báo cáo hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
9.1. Nội dung quản lý nhà nước về đầu tư
Nội dung quản lý nhà nước về đầu tư trong Luật đầu tư 2020 khá rộng, bao gồm:
- Ban hành, phổ biến và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
- Tổng hợp tình hình đầu tư, đánh giá tác động và hiệu quả kinh tế vĩ mô của hoạt động đầu tư.
- Xây dựng, quản lý và vận hành Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư.
- Cấp, điều chỉnh và thu hồi GCNĐKĐT, GCNĐKĐT ra nước ngoài, quyết định chủ trương đầu tư, quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài.
- Quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế.
- Tổ chức và thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư.
- Kiểm tra, thanh tra và giám sát hoạt động đầu tư; quản lý và phối hợp quản lý hoạt động đầu tư.
- Hướng dẫn, hỗ trợ, giải quyết vướng mắc, yêu cầu của nhà đầu tư trong thực hiện hoạt động đầu tư; giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm trong hoạt động đầu tư.
- Đàm phán, ký kết điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động đầu tư.
Như vậy, so với trước đây, nội dung quản lý nhà nước về đầu tư đã mở rộng thêm 4 nội dung (i) Tổng hợp tình hình đầu tư, đánh giá tác động và hiệu quả kinh tế vĩ mô của hoạt động đầu tư; (ii) Quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế, (iii) Xây dựng, quản lý và vận hành Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư và (iv) Đàm phán, ký kết điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động đầu tư. Các nội dung này được bổ sung để đảm bảo pháp luật gắn sát với thực tiễn đời sống và những đòi hỏi về mặt quản lý đối với hoạt động đầu tư kinh doanh trong bối cảnh phát triển kinh tế trong nước và mở rộng, hội nhập vào khu vực và thế giới.
9.2. Trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư
Trước đây quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư được phân cấp từ trung ương tới địa phương, từ Thủ tướng Chính phủ, đến BKHĐT, các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Kế thừa các quy định trước đây, Luật đầu tư 2014 đã quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của từng đối tượng, từng cơ quan liên quan đối với hoạt động quản lý đầu tư.
a) Trách nhiệm, quyền hạn của Chính phủ
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài. Với quy định này, quyền hạn và trách nhiệm của Chính phủ rộng khắp và được khái quát hóa là cơ quan chỉ đạo chung về tất cả các hoạt động đầu tư kinh doanh.
b) Trách nhiệm, quyền hạn của BKHĐT
BKHĐT giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài và có các trách nhiệm, quyền hạn sau đây:
- Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài;
- Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài;
- Ban hành biểu mẫu thực hiện thủ tục đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài;
- Hướng dẫn, phổ biến, tổ chức thực hiện, theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư;
- Tổng hợp, đánh giá, báo cáo tình hình đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài;
- Xây dựng, quản lý và vận hành Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư;
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc giám sát, đánh giá, thanh tra hoạt động đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài;
- Trình cấp có thẩm quyền quyết định việc đình chỉ thực hiện dự án đầu tư đã được cấp, điều chỉnh không đúng thẩm quyền, trái với quy định của pháp luật về đầu tư;
- Quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế;
- Quản lý nhà nước về xúc tiến đầu tư và điều phối hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam và ở nước ngoài;
- Đàm phán, ký kết điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động đầu tư;
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác về quản lý hoạt động đầu tư theo phân công của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Như vậy, với chức năng là cơ quan quản lý hoạt động đầu tư kinh doanh cấp trung ương, nhiệm vụ quan trọng nhất của BKHĐT là ban hành các biểu mẫu thực hiện thủ tục đầu tư, ban hành và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư và tổ chức giám sát, đánh giá các hoạt động đầu tư kinh doanh.
c) Trách nhiệm, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ
Theo Luật đầu tư 2020, các bộ, cơ quan ngang bộ có các trách nhiệm, quyền hạn sau đây:
- Phối hợp với BKHĐT, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc xây dựng pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư;
- Chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc xây dựng và ban hành pháp luật, chính sách, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và hướng dẫn thực hiện;
- Trình Chính phủ ban hành theo thẩm quyền điều kiện đầu tư đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện;
- Chủ trì, phối hợp với BKHĐT xây dựng quy hoạch, kế hoạch, danh mục dự án thu hút vốn đầu tư của ngành; tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư chuyên ngành;
- Tham gia thẩm định các dự án đầu tư thuộc trường hợp quyết định chủ trương đầu tư theo quy định;
- Giám sát, đánh giá, thanh tra chuyên ngành việc đáp ứng điều kiện đầu tư và quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền;
- Chủ trì, phối hợp với UBND cấp tỉnh và các bộ, cơ quan ngang bộ giải quyết khó khăn, vướng mắc của dự án đầu tư trong lĩnh vực quản lý nhà nước; hướng dẫn việc phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế;
- Định kỳ đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án đầu tư thuộc phạm vi quản lý nhà nước và gửi BKHĐT;
- Duy trì, cập nhật hệ thống thông tin quản lý đầu tư đối với lĩnh vực được phân công và tích hợp vào Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư.
Với vai trò là “cơ quan có thẩm quyền liên quan” các bộ, ban ngành thực hiện chức năng quản lý hoạt động đầu tư trong phạm vi thẩm quyền của mình và phối hợp với BKHĐT cũng như các UBND cấp tỉnh để giải thích, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của dự án đầu tư trong lĩnh vực quản lý nhà nước.
d) Trách nhiệm, quyền hạn của UBND cấp tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế
Theo Luật đầu tư năm 2020, UBND cấp tỉnh, SKHĐT, Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế có các trách nhiệm và quyền hạn sau đây:
- Phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ lập và công bố Danh mục dự án thu hút đầu tư tại địa phương;
- Chủ trì thực hiện thủ tục cấp, điều chỉnh và thu hồi GCNĐKĐT;
- Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền;
- Giải quyết theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư;
- Định kỳ đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư trên địa bàn và báo cáo BKHĐT;
- Duy trì, cập nhật Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư đối với lĩnh vực được phân công;
- Chỉ đạo việc tổ chức, giám sát và đánh giá thực hiện chế độ báo cáo đầu tư.
Như vậy, với vị trí, vai trò là cơ quan quản lý hoạt động đầu tư tại địa phương, UBND cấp tỉnh, SKHĐT, Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế có chức năng chủ yếu là chủ trì thực hiện thủ tục cấp, điều chỉnh và thu hồi GCNĐKĐT và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền.
9.3. Giám sát, đánh giá đầu tư
Giám sát, đánh giá đầu tư là công tác quản lý hoạt động đầu tư kinh doanh tối cần thiết và rất quan trọng đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đảm bảo các hoạt động đầu tư kinh doanh đi đúng hướng, tạo ra các nguồn lực xã hội, giúp nâng cao chất lượng hoạt động đầu tư. Theo Điều 69 Luật đầu tư năm 2014 thì giám sát, đánh giá đầu tư bao gồm hai nội dung chính là: (i) Giám sát, đánh giá dự án đầu tư và (ii) Giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư.
Về trách nhiệm đánh giá, giám sát đầu tư, Luật đầu tư năm 2014 phân định trách nhiệm cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện việc giám sát đầu tư theo quy định của pháp luật; cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thực hiện giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư và giám sát, đánh giá dự án đầu tư thuộc phạm vi quản lý; cơ quan đăng ký đầu tư giám sát, đánh giá dự án đầu tư thuộc thẩm quyền cấp GCNĐKĐT; và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tổ chức thực hiện giám sát đầu tư của cộng đồng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
a) Nội dung giám sát, đánh giá dự án đầu tư
Luật đầu tư năm 2014 quy định về nội dung giám sát, đánh giá dự án đầu tư bao gồm:
- Đối với dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước để đầu tư kinh doanh, cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thực hiện giám sát, đánh giá dự án theo nội dung và tiêu chí đã được phê duyệt tại quyết định đầu tư;
- Đối với dự án sử dụng nguồn vốn khác, cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thực hiện giám sát, đánh giá mục tiêu, sự phù hợp của dự án với quy hoạch và chủ trương đầu tư đã được cấp có thẩm quyền chấp thuận, tiến độ đầu tư, việc thực hiện các yêu cầu về bảo vệ môi trường, sử dụng đất đai, tài nguyên khác theo quy định của pháp luật;
- Cơ quan đăng ký đầu tư thực hiện giám sát, đánh giá các nội dung quy định tại GCNĐKĐT, văn bản quyết định chủ trương đầu tư.
b) Nội dung giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư
Luật đầu tư năm 2020 quy định về nội dung giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư bao gồm:
- Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành và thực hiện các quy định của pháp luật về đầu tư;
- Tình hình thực hiện các dự án đầu tư;
- Đánh giá kết quả thực hiện đầu tư của cả nước, các bộ, cơ quan ngang bộ và các địa phương, các dự án đầu tư theo phân cấp;
- Kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư cấp trên về kết quả đánh giá đầu tư và biện pháp xử lý những vướng mắc và vi phạm pháp luật về đầu tư.
9.4. Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư
Quy định về hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư là một quy định mới trong Luật đầu tư 2014. Quy định này giúp việc quản lý, giám sát hoạt động đầu tư tại Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài được rõ ràng, minh bạch và có hiệu quả hơn so với trước đây.
Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư bao gồm: (i) hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư trong nước và (ii) hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. Theo phân cấp thẩm quyền thì BKHĐT chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng và vận hành Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư; đánh giá việc vận hành hệ thống của cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư ở trung ương và địa phương. Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cập nhật đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin liên quan. Thông tin về dự án đầu tư lưu trữ tại Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư có giá trị pháp lý là thông tin gốc về dự án đầu tư.
9.5. Chế độ báo cáo hoạt động đầu tư
Luật đầu tư 2020 phân định hai chế độ báo cáo hoạt động đầu tư bao gồm: báo cáo hoạt động đầu tư tại Việt Nam và báo cáo hoạt động đầu tư tại nước ngoài.
Về chế độ báo cáo hoạt động đầu tư tại Việt Nam, Điều 71 Luật đầu tư 2014 quy định, các đối tượng thực hiện chế độ báo cáo gồm: (i) Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh; (ii) Cơ quan đăng ký đầu tư; (iii) nhà đầu tư, tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư. Như vậy, không chỉ có nhà đầu tư mà tất cả các tổ chức, cơ quan có liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh đều là đối tượng thực hiện báo cáo. Theo quy định của Luật đầu tư thì chế độ báo cáo được thực hiện theo kỳ hoặc đột xuất khi có yêu cầu. Chế độ báo cáo định kỳ được thực hiện như sau:
- Hằng tháng, hằng quý, hằng năm, nhà đầu tư, tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư báo cáo cơ quan đăng ký đầu tư và cơ quan thống kê trên địa bàn về tình hình thực hiện dự án đầu tư, gồm các nội dung: vốn đầu tư thực hiện, kết quả hoạt động đầu tư kinh doanh, thông tin về lao động, nộp ngân sách nhà nước, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, xử lý và bảo vệ môi trường và các chỉ tiêu chuyên ngành theo lĩnh vực hoạt động;
- Hằng tháng, hằng quý, hằng năm, cơ quan đăng ký đầu tư báo cáo BKHĐT và UBND cấp tỉnh về tình hình tiếp nhận, cấp, điều chỉnh, thu hồi GCNĐKĐT và tình hình hoạt động của các dự án đầu tư thuộc phạm vi quản lý;
- Hằng quý, hằng năm, UBND cấp tỉnh tổng hợp, báo cáo BKHĐT về tình hình đầu tư trên địa bàn;
- Hằng quý, hằng năm, các bộ, cơ quan ngang bộ báo cáo về tình hình cấp, điều chỉnh, thu hồi GCNĐKĐT hoặc các giấy tờ có giá trị tương đương khác thuộc phạm vi quản lý (nếu có); báo cáo về hoạt động đầu tư liên quan đến phạm vi quản lý của ngành và gửi BKHĐT để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ;
- Hằng quý, hằng năm, BKHĐT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình đầu tư trên phạm vi cả nước và báo cáo đánh giá về tình hình thực hiện chế độ báo cáo đầu tư của các đối tượng thực hiện chế độ báo cáo kể trên.
Các đối tượng thực hiện chế độ báo cáo kể trên thực hiện báo cáo đột xuất khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với các dự án không thuộc diện cấp GCNĐKĐT, nhà đầu tư báo cáo cơ quan đăng ký đầu tư trước khi bắt đầu thực hiện dự án đầu tư.
Về chế độ báo cáo hoạt động đầu tư tại nước ngoài, Luật đầu tư 2014 quy định các đối tượng phải thực hiện chế độ báo cáo gồm: (i) Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh; (ii) cơ quan đăng ký đầu tư ra nước ngoài và (iii) Nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư. Chế độ báo cáo của các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh bao gồm:
- Định kỳ 06 tháng và hằng năm, các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh có báo cáo tình hình quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo chức năng, nhiệm vụ của mình gửi BKHĐT tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ;
- Định kỳ 06 tháng, hằng năm, BKHĐT báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình đầu tư trên phạm vi cả nước và báo cáo đánh giá về tình hình thực hiện chế độ báo cáo tình hình quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng phải thực hiện chế độ báo cáo hoạt động đầu tư tại nước ngoài.
Nhà đầu tư thực hiện chế độ báo cáo như sau:
- Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày dự án đầu tư được chấp thuận hoặc cấp phép theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải gửi thông báo bằng văn bản về việc thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài kèm theo bản sao văn bản chấp thuận dự án đầu tư hoặc tài liệu chứng minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư cho BKHĐT, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Cơ quan đại diện Việt Nam tại nước tiếp nhận đầu tư;
- Định kỳ hằng quý, hằng năm, nhà đầu tư gửi báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư cho BKHĐT, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Cơ quan đại diện Việt Nam tại nước tiếp nhận đầu tư;
- Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư kèm theo báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư gửi BKHĐT, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Cơ quan đại diện Việt Nam tại nước tiếp nhận đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Đối với dự án đầu tư ra nước ngoài có sử dụng vốn nhà nước, ngoài việc thực hiện chế độ báo cáo quy định ở trên, nhà đầu tư phải thực hiện chế độ báo cáo đầu tư theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.
Ngoài việc báo cáo theo định kỳ như đã trình bày ở trên, các đối tượng phải thực hiện báo cáo về đầu tư tại nước ngoài phải thực hiện báo cáo đột xuất theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu liên quan đến công tác quản lý nhà nước hoặc những vấn đề phát sinh liên quan đến dự án đầu tư.
PHẦN III
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT LUẬT ĐẦU TƯ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ TRÊN THẾ GIỚI
I. QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ VÀ LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP
1. Trung Quốc
1.1. Hình thức đầu tư
Tại Trung Quốc, nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư trực tiếp thông qua hai hình thức:
– Thành lập Văn phòng đại diện: Văn phòng này chỉ được thực hiện các hoạt động không trực tiếp phát sinh lợi nhuận như làm đầu mối, tiếp thị, nghiên cứu thị trường.
– Công ty trách nhiệm hữu hạn
– Công ty trách nhiêm hữu hạn bằng cổ phiếu.
Ngoài ra, để phân biệt với doanh nghiệp trong nước, pháp luật về đầu tư nước ngoài còn đưa ra ba hình thức đầu tư cụ thể như sau:
– Liên doanh vốn (Equity Joint Venture)(“EJV”)
– Hợp tác liên doanh (Cooperative Joint Venture)(“CJV”)
– Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (wholly foreign-owned enterprise
(“WFOE”)
Sự khác biệt căn bản giữa Doanh nghiệp liên doanh vốn và doanh nghiệp hợp tác liên doanh là:
– Các thành viên của CJV có thể hưởng mức lợi nhuận hoặc gánh chịu mức thiệt hại lớn hơn mức vốn góp mà họ đã góp vào công ty trước đó. Mức cụ thể do các bên thỏa thuận.
– Nhà đầu tư nước ngoài có thể thu hồi khoản vốn đầu tư của mình ngay trong quá trình thực hiện dự án (trong một số trường hợp là trước cả khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp).
– Mô hình CJV đặc biệt phù hợp với những dự án ngắn hạn, dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc hợp đồng BOT khi mà trang thiết bị được cung cấp bởi Nhà đầu tư nước ngoài được thanh toán trước cả lợi nhuận có thể phân phối.
2. Indonesia
2.1. Hình thức đầu tư
Nhà đầu tư được phép lựa chọn một trong những hình thức đầu tư sau đây:
– Đầu tư thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn mới (mua toàn bộ cổ phần của cổ phần của công ty trách nhiệm hữu hạn ngay khi công ty này vừa thành lập);
– Mua cổ phần của các công ty đang tồn tại;
2.2. Loại hình doanh nghiệp
– Nhà đầu tư trong nước có thể lựa chọn đầu tư thành lập pháp nhân hoặc không thành lập pháp nhân, hoặc thành lập doanh nghiệp tư nhân theo quy định của luật.
– Nhà đầu tư nước ngoài buộc phải đầu tư theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn
3. Thái Lan
– Tại Thái Lan, có 3 loại hình doanh nghiệp được áp dụng đối với đầu tư nước ngoài: Doanh nghiệp tư nhân đơn nhất, công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân. Hình thức phổ biến nhất đối với đầu tư nước ngoài là Công ty TNHH tư tư nhân.
– Thành viên sáng lập (Promoters): Thành viên sáng lập có trách nhiệm đăng ký thành lập công ty với Bộ Thương mại. Thành viên sáng lập phải là cá nhân (không được là pháp nhân) bằng hoặc hơn 20 tuổi và sẵn sàng kỹ vào các văn bản trong quá trình thành lập. Đối với Công ty TNHH tư nhân, phải có tối thiểu 3 thành viên sáng lập, đối với công ty TNHH đại chúng, phải có ít nhất 15 thành viên sáng lập.
II. HÌNH THỨC ƯU ĐÃI, HỖ TRỢ ĐẦU TƯ
1. Trung Quốc
– Miễn giảm thuế (gồm thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp).
– Bên cạnh đó, khi đầu tư vào một số Vùng kinh tế trọng điểm, Nhà đầu tư có thể nhận được các lợi ích sau:
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp là 15%.
+ Được miễn thuế hai năm đầu tiên và hưởng mức thuế 12.5% cho ba năm tiếp theo.
+ Đối với những dự án đầu tư vào hạ tầng cơ bản, bảo vệ môi trường, năng lượng được miễn thuê 3 năm đầu và hưởng thuế xuất 12,5% cho 3 năm tiếp theo.
+ Những doanh nghiệp có chu trình sản xuất khép kín có thể được miễn thuế 5 năm đầu tiên và hưởng mức thuế suất 12,5% cho 5 năm tiếp theo.
2. Indonesia
– Miễn thuế đối với việc nhập khẩu máy móc nguyên vật liệu sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định đối với một số lĩnh vực khuyến khích.
– Miễn và Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.
3. Thái Lan
* Khuyến khích bằng thuế
– Miễn, giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị;
– Giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu thô và những nguyên liệu cần thiết;
– Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế lợi tức;
– Giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp;
– Khấu trừ hai lần chi phí vận chuyển, điện và nước;
– Bổ sung 25% khấu trừ chi phí xây dựng và lắp đặt cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp;
– Miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu thô và nguyên liệu thiết yếu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu.
* Khuyến khích không bằng thuế
– Cho phép công dân nước ngoài vào Thái Lan để nghiên cứu cơ hội đầu tư;
– Cho phép đưa vào Thái Lan những người lao động kỹ năng cao và chuyên gia để thực hiện việc xúc tiến đầu tư;
– Cho phép sở hữu đất đai;
– Cho phép mang lợi nhuận ra nước ngoài bằng ngoại tệ;
* Biện pháp bảo đảm đầu tư
– Nhà nước sẽ không quốc hữu hóa các tài sản của Nhà đầu tư;
– Nhà nước sẽ không thực hiện những hoạt động cạnh tranh với các hoạt động của nhà đầu tư;
– Nhà nước sẽ không độc quyền bán các sản phẩm tương tự như sản phẩm của nhà đầu tư;
– Nhà nước sẽ không buộc nhà đầu tư phải điều chỉnh giá bán các sản phẩm của mình;
– Nhà nước sẽ cho phép xuất khẩu sản phẩm vào bất kỳ thời điểm nào nhà đầu tư có yêu cầu;
– Nhà nước sẽ không cho phép bất kỳ cơ quan nhà nước, tổ chức nhà nước hoặc doanh nghiệp nhà nước nào miến thuế nhập khẩu bất kỳ loại sản phẩm nào đang được sản xuất bởi nhà đầu tư vào lãnh thổ Thái Lan.
* Biện pháp bảo vệ nhà đầu tư
– Thu khoản thuế nhập khẩu tăng thêm đối với những hàng hóa nhập khẩu vào Thái Lan mà mặt hàng đó tương tự với những mặt hàng do các nhà đầu tư sản xuất trong nước với mức thu không quá 50% giá của bảo hiểm và phí vận chuyển cho hàng hóa đó, thời gian áp dụng mức thuế tăng thêm này không quá một năm.
– Trong trường hợp Ban đầu tư cho rằng việc áp mức thuế nhập khẩu tăng thêm nói trên không đủ mạnh để bảo vệ hoạt động của nhà đầu tư, biện pháp cấp nhập khẩu đối với các mặt hàng tương tự sản phẩm sản xuất trong nước.
– Trong trường hợp các nhà đầu tư gặp bất kỳ khó khăn hoặc vướng mắc nào trong quá trình triển khai hoạt động đầu tư, Chủ tịch Ban Đầu tư sẽ đưa ra các biện pháp hỗ trợ cần thiết cho nhà đầu tư.
III. MÔ HÌNH TỔ CHỨC, QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
1. Trung Quốc
Tại Trung Quốc, hiện nay có ba hệ thống cơ quan quản lý hoạt động đầu tư:
– Bộ Thương mại (The PRC Ministry of Commece “MOFCOM”) và các Sở thương mại tại địa phương.
– Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia và cơ quan cấp dưới của cơ quan này tại địa phương (NDRC);
– Tổng cục quản lý hành chính về công nghiệp và thương mại (SAIC).
Sự tham gia cụ thể của các cơ quan nêu trên được mô tả trong phần thủ tục đầu tư nêu trên.
Sơ đồ 1: Thẩm quyền thụ lý hồ sơ dự án đầu tư tại Trung Quốc
2. Indonesia
– Cơ quan thống nhất quản lý về đầu tư (cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài) là Ban điều phối đầu tư Indonesia – BKPM. Đây là một cơ quan độc lập trực thuộc Tổng thống mà không nằm dưới bất kỳ cơ quan nào khác của Chính phủ.
Đây là cơ quan có nhiệm vụ điều phối hoạt động đầu tư giữa Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ, Ngân hàng Indonesia và chính quyền địa phương cũng như giữa các chính quyền địa phương với nhau. Hơn thế nữa, BKPM còn được biết tới như một cơ quan ủy nhiệm của các nhà đầu tư, cung cấp cho họ những đảm bảo cần thiết để tiến hành hoạt động đầu tư;
– Về tổ chức, cơ quan này có trụ sở chính ở Jakata và có các văn phòng đại diện ở các địa phương. Ở tại mỗi văn phòng, đều có bộ phận một cửa tiếp nhận hồ sơ dự án đầu tư.
– BKPM có trách nhiệm thụ lý đối với các dự án đầu tư vào hầu hết các lĩnh vực ở Indonesia, tuy nhiên, có một số lĩnh vực chuyên ngành hồ sơ được nộp và xử lý tại bộ chủ quản, cụ thể như sau:
+ Ngân hàng – nộp tại Ngân hàng trung ương Indonesia;
+ Tài chính phi ngân hàng – tại Tổng giám đốc Các tổ chức tài chính;
+ Khai thác dầu mỏ, khí đốt
+ Khai thác than;
+ Trồng và khai thác rừng;
+ Khai thác quặng;
Đối với một số lĩnh vực thuộc lĩnh vực cấm và hạn chế đầu tư, nhà đầu tư cần được phê chuẩn từ bộ quản lý trong lĩnh vực
3. Thái Lan
Thái Lan có hai cơ quan liên quan đến việc quản lý đầu tư:
– Cục Phát triển kinh doanh (Department of Business development – DBD) trực thuộc Bộ Thương mại.
Đây là cơ quan đầu mối trong việc tiến hành các thủ tục đăng ký cấp Giấy phép kinh doanh nước ngoài và đăng ký thành lập doanh nghiệp tại Thái Lan.
– Cục Quản lý đầu tư (Board of Investment – BOI) trực thuộc Bộ Công nghiệp.
Đây là cơ quan quản lý về đầu tư của Thái Lan. Cơ quan này có vai trò chủ trì trong việc xây dựng các danh mục khuyến khích, hạn chế đầu tư. Cơ quan này cũng tham gia vào việc xúc tiến đầu tư và hỗ trợ các dự án đầu tư nước ngoài thuộc lĩnh vực được khuyến khích đầu tư tại Thái Lan.
V. THỦ TỤC ĐẦU TƯ
1. Trung Quốc
Quá trình thành lập một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc có thể thực hiện theo 8 bước:
Bước 1: Xem xét về tập trung kinh tế và an ninh quốc gia
* Xem xét việc tuân thủ quy định về tập trung kinh tế
Bước này chỉ bắt buộc đối với trường hợp nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc thông qua hợp nhất, sáp nhập.
* Xem xét sự tuân thủ quy định về an ninh quốc gia:
Bước này cũng chỉ bắt buộc khi Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc thông qua hình thức Hợp nhất, sáp nhập và thuộc một trong những trường hợp sau đây:
– Hợp nhất, sáp nhập với doanh nghiệp quốc phòng;
– Doanh nghiệp gân với những khu vực quốc phòng quan trọng, nhạy cảm.
– Những doanh nghiệp hoặc đơn vị có quan hệ với cơ quan quốc phòng hoặc an ninh.
– Hợp nhất, sáp nhập với những doanh nghiệp trong nước đầu tư vào lĩnh vực liên quan tới an ninh quốc gia như: đầu tư vào những công nghệ chủ chốt, ngành công nghiệp sản xuất những máy móc chính, những sản phẩm công nghiệp quan trọng, hoặc liên quan tới nguồn năng lượng, tài nguyên, hạ tầng, giao thông.
Nhà đầu tư có thể tự nguyện nộp hồ sơ để xem xét về vấn đề an ninh quốc gia cho Bộ Thương mại Trung Quốc (MOFCOM) nếu họ tư thấy dự án của mình thuộc một trong những trường hợp nêu trên hoặc cơ quan thương mại cấp dưới (Sở thương mại) có thể yêu cầu Nhà đầu tư nộp hồ sơ để xem xét vấn đề nói trên.
Bước 2: Đăng ký tên doanh nghiệp
Để chuẩn bị cho quá trình thành lập doanh nghiệp nhà đầu tư phải nộp hồ sơ tới Tổng cục quản lý hành chính và thương mại Trung Quốc (SIAC) hoặc cơ quan cấp dưới của cơ quan này để đăng ký tên doanh nghiệp. Việc đăng ký này thường chỉ mất một ngày.
Bước 3: Xin ý kiến các cơ quan có liên quan về địa điểm thực hiện dự án
Trước khi nộp hồ sơ để xin chấp thuận việc thực hiện dự án, Nhà đầu tư phải nhận được ý kiến bằng văn bản của các cơ quan sau đây liên quan đến địa điểm thực hiện dự án:
– Chấp thuận sử dụng đất –bởi Sở Đất đai và tài nguyên;
-Đánh giá tác động môi trường – bởi Cơ quan bảo về môi trường cấp tình hoặc cấp Trung ương;
-Sự phù hợp với quy hoạch – bởi Sở quy hoạch
-Ý kiến về việc sử dụng tài sản nhà nước hoặc quyền sử dụng đất thuộc nhà nước nếu như dự án có sử dụng những tài sản này – bởi Ủy bản quản lý và giám sát tài sản quốc gia
Bước 4: Xin Chấp thuận đầu tư của Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia
Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia có quyền thông qua hoặc từ chối bất kỳ dự án đầu tư nước ngoài nào vào Trung Quốc thông qua quá trình chấp thuận đầu tư. Tuy nhiên, thông thường, quá trình chấp thuận dự án chỉ yêu cầu với những dự án đầu tư tài sản cố định, đầu tư vào sản xuất, hoặc đầu tư sử dụng nguồn năng lượng hoặc tài nguyên đặc biệt.
Nhà đầu tư sẽ được yêu cầu nộp hồ sơ tại cơ quan cấp dưới của Ủy ban này. Tùy thuộc vào quy mô dự án và lĩnh vực đầu tư, dự án có thể được gửi lên xử lý tại Ủy ban.
* Hồ sơ cần bao gồm các thông tin sau:
– Tên dự án, thời hạn thực hiện và thông tin cơ bản của Nhà đầu tư;
– Quy mô, nội dung xây dựng, công nghệ chính sử dụng, thị trường mục tiêu, số lao động dự kiến;
– Địa điểm xây dựng, yêu cầu về đất, nước, năng lượng và dự kiến số nguyên liệu thô tiêu thụ;
– Đánh giá tác động môi trường;
– Giá phí hàng hóa, dịch vụ công dự kiến sử dụng;
– Tổng vốn đầu tư, vốn đăng ký, tiến độ giải ngân, hình thức huy động vốn và kế hoạch tài chính, máy móc thiết bị cần phải nhập khẩu và giá dự kiến;
* Hồ sơ cần gồm các tài liệu sau:
– Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Đối tác trong nước và Nhà đầu tư nước ngoài;
– Báo cáo tài chính có kiểm toán mới nhất của doanh nghiệp và Giấy chứng nhận về mức độ tín nhiệm
– Một văn bản bày tỏ mong muốn đầu tư và trong trường hợp tăng vốn, hợp nhất, sáp nhập cần nộp thêm nghị quyết của ban quản lý công ty.
– Chứng thư chứng nhận cam kết tài trợ vốn của ngân hàng (nếu cần vay vốn ngân hàng)
– Các ý kiến bằng văn bản của các cơ quan có liên quan như nêu tại bước 3.
* Việc xem xét dự án sẽ tập trung vào các nội dung sau:
– Sự phù hợp với lĩnh vực kêu gọi đầu tư;
– Sự phù hợp với kế hoạch trung và dài hạn cho phát triển kinh tế, xã hội quốc gia, quy hoạch phát triển ngành mà dự án đầu tư;
– Phù hợp với lợi ích công và những quy định của chính quyền trung ương và luật về chống độc quyền.
– Phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và bảo về môi trường;
– Phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia về công nghệ;
– Phù hợp với quy định về quản lý vốn và nợ nước ngoài;
Bước 5:Xin chấp thuận của Bộ hoặc sở thương mại
Sau khi dự án được thông qua bởi Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia, nhà đầu tư cần xin chấp thuận của Bộ hoặc Sở thương mại. Cơ quan này sẽ xem xét các vấn đề liên quan tới hình thức của doanh nghiệp FDI dự kiến hình thành thông qua việc xem xét các thỏa thuận về việc thành lập công ty. Kết quả của quá trình này là một Giấy chứng nhận.
* Hồ sơ bao gồm:
– Đơn đăng ký loại hình công ty dự kiến thành lập;
-Báo cáo nghiên cứu khả thi (FS);
-Điều lệ công ty;
-Chấp thuận dự án của Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia;
-Ý kiến của cơ quan hữu quan về quyền sử dụng đất, quy hoạch và tác động môi trường;
-Đối với thành lập Công ty liên doanh vốn (EJV): (i) Hợp đồng liên doanh, (ii)danh sách tên của ứng viên chủ tịch, phó chủ tịch và ban giám đốc;
-Đối với thành lập Công ty hợp tác liên doanh (CJV): (i) Hợp đồng liên doanh; (ii) một bản đề xuất dự án; (iii) chứng nhận đăng ký kinh doanh của mỗi thành viên trong liên doanh; (iv) danh sách tên của các ứng viên chủ tịch, phó chủ tịch và ban giám đốc;
-Đối với Công ty 100% vốn nước ngoài (WFOE): (i) danh sách tên của đại diện theo pháp luật hoặc ứng viên cho ban giám đốc công ty; (ii) một văn bản chứng nhận pháp lý và Giấy chứng nhận khả năng thanh toán tín dụng (Credit worthiness Certificate); (iii) ý kiến bằng văn bản của chính quyền địa phương nơi đầu tư dự án; (iv) danh sách những máy móc, thiết bị dự kiến nhập khẩu; (v) những văn bản khác trong trường hợp luật có yêu cầu;
* Kết quả xử lý
Cơ quan xử lý hồ sơ sẽ căn cứ vào hồ sơ để xem xét sự đáng tin cậy của Nhà đầu tư và sự hợp pháp của hoạt động đầu tư nước ngoài. Kết quả quá trình này có thể là:
– Giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
-Từ chối việc thành lập bằng văn bản có nêu rõ lý do;
* Thời gian xem xét hồ sơ
Đối với CJV có thể lên tới 45 ngày, đối với WFOE hoặc EJV có thể lên tới 90 ngày;
* Một dự án có thể bị từ chối vì một trong những lý do sau:
– Phá hoại chủ quyền Trung Quốc và lợi ích công;
-Đe dọa an ninh quốc gia;
-Vi phạm pháp luật Trung Quốc;
-Không phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế đất nước;
-Gây nguy hại tới môi trường;
-Đối với trường hợp thành lập Công ty liên doanh vốn (EJV): có sự bất bình đẳng một cách rõ ràng trong các hợp đồng, thỏa thuận hoặc điều lệ công ty gây thiệt hại cho một bên tham gia.
Bước 6: Xin cấp các giấy phép của cơ quan quản lý chuyên ngành
Đối với những dự án đầu tư vào một số lĩnh vực nhất định, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải xin giấy phép chuyên ngành cho lĩnh vực hoạt động đó.
Theo quy định hiện hành, có khoảng 100 hoạt động kinh doanh có điều kiện tại Trung Quốc. Thông thường, doanh nghiệp phải có các giấy phép đáp ứng đủ điều kiện hoạt động này trước khi thực hiện bước đăng ký (dưới đây).
Bước 7: Đăng ký doanh nghiệp
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được Giấy chứng nhận từ Bộ Thương mại hoặc Sở Thương mại, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải được đăng ký tại Cục Đăng ký doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trực thuộc Tổng cục quản lý hành chính về công nghiệp và thương mại Trung Quốc (SAIC) hoặc cơ quan cấp dưới của cơ quan này tại địa phương.
* Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp bao gồm:
– Đơn đăng ký;
-Văn bản cử người đại diện được ký bởi tất cả các cổ đông;
-Điều lệ doanh nghiệp;
-Chứng thư xác nhận vốn đầu tư phát hành bởi tổ chức tín dụng hợp pháp theo quy định của pháp luật về tài chính, ngân hàng;
-Văn bản chuyển nhượng tài sản phù hợp với thời điểm đăng ký doanh nghiệp trong trường hợp tài sản góp vốn không phải là tiền;
– Chứng nhận thành lập với nhà đầu tư là tổ chức hoặc chứng minh thư hoặc hộ chiếu với nhà đầu tư là cá nhân.
-Văn bản chỉ rõ tên, địa chỉ cư trú của giám đốc, kiểm soát viên, các chức danh quản lý và các văn bản về việc chỉ định, bầu hoặc thuê các chức danh này.
-Văn bản chỉ định và chứng minh thư hoặc hộ chiếu của người đại diện theo pháp luật của công ty;
-Thông báo về việc phê duyệt tên doanh nghiệp;
-Chứng nhận về việc sử dụng địa điểm của công ty;
– Bất kỳ văn bản nào khác yêu cầu bởi Tổng cục quản lý hành chính về công nghiệp vào thương mại (SAIC);
Thông thường, thời hạn xử lý hồ sơ là 10 ngày làm việc.
Bước 8: Những yêu cầu đăng ký khác
– Đăng ký mã vạch – tại Sở giám sát chất lượng và kỹ thuật;
– Xin Giấy phép khắc dấu – tại Sở Công an địa phương;
– Đăng ký thuế – tại Sở thuế địa phương;
– Đăng ký việc giao dịch ngoại tệ và xin phép mở tài khoản ngoại tệ;
– Đăng ký đại diện Xuất – Nhập khẩu – tại Hả quan;
2. Indonesia
Quá trình đầu tư tại Indonesia chia làm 3 giai đoạn và 7 bước:
(i) Chuẩn bị đầu tư: đây là giai đoạn thành lập một pháp nhân Indonesia để thực hiện hoạt động đầu tư;
(ii) Xây dựng: đây là giai đoạn chuẩn bị cơ sơ hạ tầng và thu xếp các giấy phép cần thiết cho việc đầu tư;
(iii) Sẵn sàng cho sản xuất, vận hành: là giai đoạn đã sãn sàng sản xuất hoặc kinh doanh (dịch vụ);
Bước 1: Xin Giấy phép nguyên tắc:
Nhà đầu tư phải xin giấy phép nguyên tắc trước khi tiến hành hoạt động đầu tư; Ý nghĩa của giấy phép nguyên tắc:
– Là một trong những cơ sở để cấp Chứng nhận thành lập của công ty;
– Là chỉ dẫn về việc hoạt động đầu tư được cấp phép hay không được cấp phép.
Bước 2: Chứng nhận thành lập doanh nghiệp:
Chứng nhận thành lập được cấp bởi Phòng công chứng. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ được phép thành lập dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn (Limited liability Company – LLC).
Tuy nhiên, sau khi phòng công chứng cấp chứng nhận thành lập, cơ quan này phải gửi Giấy xác nhận này cho Bộ Pháp luật và quyền con người của Indonesia để phê chuẩn. Chỉ sau khi có sự phê chuẩn nêu trên, doanh nghiệp mới chính thức được thành lập.
Bước 3: Mã số xuất nhập khẩu:
– Sau khi được thành lập, công ty phải xin mã số xuất nhập khẩu (API-P or Producer Importer Identification Number). Đây là một mã số quan trọng cần phải có để nhập khẩu hàng hóa như máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vv…
– Việc xin cấp API-P được thực hiện tại bộ phận một cửa của Ban điều phối đầu tư Indonesia (Indonesia investment coordinating board – BKPM)
Bước 4: Làm thủ tục để hưởng việc miễn nghĩa vụ thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị
– Máy móc thiết bị chỉ được hưỡng miễn thuế nhập khẩu nếu: trong nước chưa sản xuất được, đã sản xuất nhưng không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng hoặc số lượng;
– Việc làm thủ tục miễn thuế cũng được thực hiện tại bộ phận một cửa của BKPM.
Bước 5: Làm thủ tục về thuế thu nhập doanh nghiệp
Sau khi thành lập công ty phải làm thủ tục công nhận thuế. Hồ sơ cũng được nộp tại bộ phận một cửa của BKPM.
Bước 6: Xin các giấy phép tại chính quyền địa phương
– Giấy phép về địa điểm đầu tư;
– Giấy phép xây dựng;
– Giấy phép cam kết không gây ảnh hưởng;
Đăng ký mã số công ty;
Bước 7: Giấy phép hoạt động:
Trong quá trình thực hiện dự án, công ty phải xin Giấy phép vận hành. Giấy phép này liên quan tới những khía cạnh kỹ thuật của lĩnh vực đầu tư;
Giấy phép này được cấp bởi Bộ chủ quản của ngành, lĩnh vực mà dự án tiến hành đầu tư;
3. Thái Lan
Quá trình thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Thái Lan trải qua 2 bước: (1) Đăng ký Giấy phép kinh doanh nước ngoài, (2) Đăng ký thành lập doanh nghiệp
Bước 1: Đăng ký Giấy phép kinh doanh nước ngoài.
* Thông tin chung.
Tại Thái Lan, đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (bên nước ngoài chiếm trên 49%) phải làm thủ tục để được cấp Giấy phép kinh doanh nước ngoài (FBL) trước khi đăng ký thành lập doanh nghiệp. Giấy phép kinh doanh nước ngoài là sự cho phép của nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đăng ký thành lập tại Thái Lan. Tuy nhiên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Thái Lan phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý công ty, điều này có nghĩa là có thể thành lập một doanh nghiệp mà bên nước ngoài có trên 49% quyền biểu quyết của công ty mà không cần làm thủ tục cấp Giấy phép kinh doanh nước ngoài. Cách đơn giản nhất để được cấp Giấy phép kinh doanh nước ngoài là nhận được sự ủng hộ của Cục Đầu tư Thái Lan. Sự ủng hộ này giúp cho cơ hội nhận được Giấy phép kinh doanh nước ngoài có thể lên tới 100%. Tuy nhiên, Cục Đầu tư Thái Lan chỉ ủng hộ cho những dự án đầu tư vào những lĩnh vực quan trọng đối với Thái Lan. Đối với những lĩnh vực không thuộc danh mục này thì Nhà đầu tư nộp hồ sơ trực tiếp tại Cục phát triển kinh doanh.
* Hồ sơ xin cấp Giấy phép kinh doanh nước ngoài
– Một bản cung cấp thông tin về công ty dự kiến thành lập, tối thiểu bao gồm các thông tin sau: tên công ty, vốn đăng ký, vốn thành viên sáng lập góp, danh sách cổ đông, mục tiêu hoạt động, địa chỉ trụ sở, danh sách tên của các giám đốc và những người có thẩm quyền ký các văn bản của công ty;
– Một bản phô tô của Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân của Nhà đầu tư nước ngoài hoặc chứng minh thư đối với người đại diện được chỉ định của công ty;
– Giấy tờ chứng minh về việc ủy quyền cho người đại diện cho công ty với các thông tin sau: không trẻ hơn 20 tuổi, được phép vào Thái Lan với mục đích hoạt động kinh doanh, được đào tạo ngành nghề phù hợp với loại hình kinh doanh của công ty, có tình trạng tài chính ổn định, không chịu các hình phạt trong vòng 5 năm trở lại đây, chưa từng bị đi tù trong vòng 5 năm trở lại đây vì các tội lừa đảo, trốn nợ, tham ô, gian lận thương mại, tội phạm liên quan đến gian lận các khoản nợ hoặc phạm các tội theo Luật cư trú.
– Một bản cam kết về việc trong vòng 5 năm chưa có hồ sơ đăng ký Giấy phép kinh doanh nước ngoài bị từ chối.
– Một bản đồ chỉ rõ các địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp tại Thái Lan;
– Một tuyên bố về các nội dung cụ thể của loại hình hoạt động kinh doanh;
– Một bản phô tô của báo cáo tài chính trong vòng 3 năm của nhà đầu tư nước ngoài;
– Một bản phô tô của các giấy phép có thể được yêu cầu phục vụ cho việc thực hiện các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp;
– Một bản phô tô của thị thực thể hiện việc nhà đầu tư được phép ở lại Thái Lan.
* Những thông tin có thể được yêu cầu bởi Cục phát triển kinh doanh:
– Loại hình kinh doanh, bao gồm mô tả về sản phẩn, mô tả quá trình thực hiện và các bước vận hành;
– Kế hoạch thuê nhân công, bao gồm tên vị trí, số lượng, quốc tịch người lao động, lương dự kiến cho ba năm.
– Kế hoạch chuyển giao công nghệ từ nước ngoài cho người lao động Thái Lan.
– Kế hoạch đào tạo cho người lao động Thái Lan;
– Kế hoạch kinh doanh cho 3 năm từ lúc thành lập doanh nghiệp;
Sự đầy đủ của các văn bản này được đánh giá bởi chuyên viên của Cục phát triển kinh doanh. Do vậy, tùy thuộc vào ý kiến của người thẩm định, mức độ chi tiết của hồ sơ có thể được yêu cầu khác nhau và thời gian thẩm định hồ sơ có thể lên đến vài tháng.
Khi hồ sơ đã được chấp thuận là hợp lệ, thời gian xem xét hồ sơ chính thức là 60 ngày.
* Nội dung thẩm định hồ sơ
Tiêu chí để đánh giá của Hội đồng kinh doanh nước ngoài để cấp Giấy phép kinh doanh nước ngoài bao gồm:
– Loại hình hoạt động không thể được thực hiện bởi những công ty mà nhà đầu tư Thái Lan sở hữu đa số;
– Loại hình hoạt động không anh hưởng tới an ninh, ổn định quốc gia, thuần phong, mỹ tục hoặc trật tự xã hội;
– Những hoạt động phải mang lại lợi ích cho nền kinh tế của Thái Lan, bao gồm những ảnh hướng tới tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn thiên nhiên, năng lượng và môi trường, bảo vệ khách hàng, quy mô của doanh nghiệp và nhu cầu lao động;
– Những hoạt động mang lại lợi ích liên quan tới chuyển giao công nghệ, nghiên cứu và phát triển.
Bước 2: Đăng ký thành lập doanh nghiệp
Sau khi được cấp Giấy phép kinh doanh nước ngoài, Nhà đầu tư được đăng ký thành lập doanh nghiệp.
* Đăng ký tên doanh nghiệp
Đây là bước đầu tiên của quá trình thành lập doanh nghiệp. Để đăng ký được tên doanh nghiệp, công ty có thể thực hiện theo một trong hai cách:
– Nộp một bản đang ký theo mẫu đã có chữ ký của các thành viên sáng lập cho Vụ Phát triển kinh doanh (the Department of Business Development) trực thuộc Bộ Tài Chính
-Nộp và khai form thông qua website của Vụ này.
Người nộp đơn được yêu cầu nộp kèm tên đã chọn với hai tên khác. Các tên dự phòng sẽ tự động được chọn khi tên ban đầu bị trùng hoặc gây nhầm lẫn.
Sau khi tên được chấp thuận, phê chuẩn này sẽ có hiệu lực trong vòng 30 ngày và không có gia hạn. Tuy nhiên, sau khi phê chuẩn đã hết hạn, các thành viên sáng lập vẫn có thể đăng ký lại tên này nếu tên đó vẫn chưa được chọn bởi công ty khác.
* Đăng ký dự thảo điều lệ công ty
– Sau khi tên công ty được phê chuẩn, công ty phải nộp điều lệ công ty cho Cục Phát triển kinh doanh.
+ Đối với công ty TNHH tư nhân, điều lệ phải bao gồm tên công ty, tỉnh nơi công ty đặt trụ sở, mục tiêu hoạt động của công ty, vốn điều lệ, tên của thành viên sáng lập. Thông tin về vốn phải bao gồm số lượng cổ phần của mối thành viên tính theo giá trị.
+ Đối với công ty TNHH đại chúng, điều lệ công ty phải bao gồm tên công ty, mục tiêu của công ty về việc chào bào cổ phần ra công chúng, mục tiêu của công ty, vốn điều lệ đăng ký (gồm loại, số lượng, giá trị của cổ phiếu), tỉnh nơi công ty đặt trụ sở, tên, ngày tháng năm sinh, quốc tịch, địa chỉ của thành viên sáng lập và số lượng cổ phần nắm giữ bởi mỗi thành viên.
– Bên cạnh đó, riêng đối với việc thành lập doanh nghiệp có vốn nước ngoài,những quy định sau sẽ được áp dụng:
+ Nếu công ty thực hiện các hoạt động được liệt kê trong Luật Kinh doanh nước ngoài, vốn đăng ký phải nhiều hơn 25% chi phí vận hành trung bình tính trong 3 năm nhưng không thấp hơn 3 triệu baht.
+ Nếu công ty không thực hiện các hoạt động được liệt kê trong Luật Kinh doanh nước ngoài, vốn đăng ký tối thiểu không thấp hơn 2 triệu baht.
– Nếu công ty muốn thuê lao động là người nước ngoài, mức vốn đăng ký tối thiểu khác cũng có thể bị áp dụng.
– Mức lệ phí đăng ký áp dụng cho công ty TNHH tư nhân là 50 baht cho 100.000 baht vốn đăng ký. Lệ phí tối thiểu là 500 baht, tối đa là 25.000 baht. Đối với công ty TNHH đại chúng, mức lệ phí đăng ký là 1000 baht cho 1.000.000 baht vốn đăng ký. Mức lệ phí tối đa là 50.000 baht. Mặc dù vậy, luật Thái Lan không yêu cầu mức vốn đăng ký tối thiểu, số vốn đăng ký nên đáp ứng được nhu cầu vận hành hoạt động kinh doanh.
* Tổ chức phiên họp Thành viên sáng lập theo luật định
Khi cấu trúc công ty đã được xác định, các thành viên phải tổ chức một phiên họp của các thành viên sáng lập trong đó quyết định những vấn đề sau đây:
– Thông qua Điều lệ;
– Phê chuẩn tất cả các hợp đồng và chi phí do các thành viên sáng lập ký kết hoặc chi trả liên quan đến việc thành lập công ty;
– Xác định thù lao, nếu có của các thành viên sáng lập công ty;
– Xác định số lượng cổ phần ưu đãi, nếu có, sẽ được phát hành và các quyền, nghĩa vụ gắn liền với các cổ phần đó;
– Xác định số lượng cổ phần phổ thông hoặc cổ phần ưu đãi được phân phối theo hình thức thanh toán toàn bộ hoặc thanh toán một phần.
– Chỉ định Giám đốc, ban giám đốc, kiểm soát viên và quyết định thẩm quyền của Giám đốc, ban giám đốc;
Sau khi cuộc họp thành viên sáng lập được thực hiện, các sáng lập viên phải ban giao lại toàn bộ hoạt động kinh doanh cho giám đốc hoặc ban giám đốc của công ty;
* Đăng ký thành lập doanh nghiệp
Trong vòng 3 tháng kể từ ngày tổ chức cuộc họp thành viên sáng lập, giám đốc công ty phải nộp hồ sơ để đăng ký thành lập công ty. Nếu quá thời hạn trên, thành viên sáng lập phải tổ chức lại cuộc họp.
Trong quá trình đăng ký, thành viên sáng lập sẽ được yêu cầu cung cấp tên doanh nghiệp, số Giấy phép kinh doanh nước ngoài, mức thù lao cho kiểm toán viên, người mà công ty dự kiến sẽ thuê.
Mức phí để đăng ký thành lập công ty là 500 baht đối với mỗi 100.000 baht vốn đăng ký. Mức phí tối thiểu là 5000 baht và tối đa là 250.000 baht. Đối với công ty đại chúng, mức phí đăng ký thành lập doanh nghiệp là 1000 baht đối với mỗi 1.000.000 baht vốn đăng ký và tối đa không quá 250.000 baht.
* Đăng ký thuế
Một công ty được đăng ký một mã số thuế tại Cục quản lý Doanh thu trong vòng 60 ngày kể từ ngày thành lập hoặc trong trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì kể từ ngày bắt đầu thực hiện hoạt động kinh doanh tại Thái Lan. Ngoài ra, công ty có doanh thu trên mức 1.8 triệu baht còn phải đăng ký thuế VAT với Cục Quản lý Doanh thu trong vòng 30 ngày kể từ ngày doanh thu vượt quá ngưỡng quy định.
* Đăng ký tài khoản cho người lao động theo Luật An ninh xã hội
Nếu công ty có ít nhất một lao động, công ty có trách nhiệm đăng ký tài khoản cho người lao động theo Luật An ninh xã hội. Việc đăng ký được thực hiện tại Văn phòng An ninh xã hội trong vòng 30 ngày kể từ ngày bắt đầu sử dụng lao động. Quá trình đăng ký tài khoản cho người lao động thường được hoàn thành trong vòng 1 ngày nếu tất cả thông tin được yêu cầu được cung cấp đầy đủ.
VI. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC
1. Trung Quốc
Vốn pháp định:
Theo quy định tại Điều 26 Luật Công ty của Trung Quốc, các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải đảm bảo mức vốn pháp định là 30.000 nhân dân tệ (khoảng 5000 dolla Mỹ) đối với doanh nghiệp có một chủ sở hữu và khoảng 100.000 nhân dân tệ (khoảng 16.000 dolla Mỹ) với doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu. Tuy nhiên, mức vốn đăng ký phải đáp ứng được nhu cầu đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp do vậy mức vốn được chấp thuận thường cao hơn mức vốn pháp định do Luật Công ty quy định (thường nằm trong mức từ 500.000 nhân dân tệ đến 1 triệu nhân dân tệ).
2. Indonesia
Một số định nghĩa theo Luật Đầu tư Indonesia
– “Đầu tư nước ngoài” là bất kỳ hình thức là một hoạt động đầu tư để thực hiện kế hoạch kinh doanh trong lãnh thổ Indonesia được thực hiện bởi nhà đầu tư nước ngoài khi sử dụng hoàn toàn vốn đầu tư nước ngoài hoặc tham gia vào một liên doanh với nhà đầu tư trong nước;
– “Nhà đầu tư nước ngoài” là một công dân nước ngoài, một thực thể kinh doanh nước ngoài hoặc một chính phủ nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Indonesia.
– “Vốn đầu tư nước ngoài” là vốn sở hữu bởi một quốc gia nước ngoài, một công dân nước ngoài, một thực thể kinh doanh nước ngoài, một thực thể pháp lý nước ngoài, hoặc một thực thể pháp lý Indonesia trong đó vốn này được sở hữu một phần hoặc toàn bộ bởi bên nước ngoài.
– Theo quy định của Luật Đầu tư, nhà đầu tư được đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào ngoại trừ những lĩnh vực cấm đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện (Article 12.1).
3. Thái Lan
– Doanh nghiệp nước ngoài gồm:
+ Thể nhân không phải là công dân Thái Lan;
+ Pháp nhân không đăng ký kinh doanh tại Thái Lan;
+ Pháp nhân đăng ký tại Thái Lan nhưng có các đặc điểm sau:
(a)Có một nửa hoặc hơn một nửa vốn điều lệ nắm giữ bởi những chủ thể (1) hoặc (2); hoặc pháp nhân có các chủ thể (1) hoặc (2) đã đầu tư với giá trị bằng một nửa hoặc hơn tổng tài sản của pháp nhân đó.
(b) Một công ty hợp danh trách nhiệm hữu hạn hoặc một công ty hợp danh thông thường có đăng ký mà thành viên điều hành hoặc người quản lý là một người nêu tại điểm 1 trên đây;
+ Một pháp nhân đăng ký tại Thái Lan có một nửa hoặc hơn một nửa cổ phần được nắm giữ bởi các chủ thể (1) hoặc (2) hoặc (3) hoặc các chủ thể (1), (2) hoặc (3) đã đầu tư với giá trị bằng một nửa hoặc hơn một nửa vào tổng tài sản của công ty.
CẢM ƠN QUÝ BẠN ĐỌC ĐÃ GHÉ THĂM WEDSITE!