đơn tháng 06 năm 2016

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Kính gửi : – Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân

– Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

– Chủ Tịch nước Trần Đại Quang

– Thủ Tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc

– Trưởng Ban Nội Chính Trung ương

– Chánh Thanh tra Chính Phủ

– Bộ Trưởng Bộ Công An

– Viện Trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao

– Trưởng Ban Nội chính Tỉnh Ủy Bà Rịa-Vũng Tàu

– Chánh án Tòa án Nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

– Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

Kính thưa quý lãnh đạo!

Tôi tên là : Nguyễn Thế Tiến, sinh năm 1950 Điện thoại : 0918.461.862

Địa chỉ : 141/1/22 Chu Mạnh Trinh, phường 8, TP Vũng Tàu, Bà Rịa-Vũng Tàu

Ngày 29/10/2012, tôi bị cơ quan CSĐT (PC46) CA tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu khởi tố về tội : “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Quyết định số 10/KTBC-CSĐT-PC46 do Đại tá Nguyễn Ngọc Tường ký tên. Đồng thời tôi bị ra lệnh cấm đi khỏi nợi cư trú theo lệnh cấm số 02/CSĐT-PC46 ngày 29/10/2012 cũng do Đại tá Nguyễn Ngọc Tường ký tên.

Ngày 30/10/2012, Viện trưởng VKSND tỉnh BRVT ra Quyết định số 211/VKS-P1 do Phó Viện trưởng Vũ Xuân Rồng ký tên phê chuẩn Quyết định KTBC số 10/KTBC-CSĐT-PC46.

Sau khi bị khởi tố, tôi đã nhiều lần được mời đến CQ CSĐT CA tỉnh BRVT làm việc trực tiếp và cung cấp thông tin cho điều tra viên tên Trương Huy Hoan. Từ tháng 6/2012 đến trước khi bị khởi tố, tôi cũng đã nhiều lần được mời đến CQ CSĐT làm việc trực tiếp với điều tra viên tên Nguyễn Hồng Dương.

Ngày 04/02/2013, CQ CSĐT CA tỉnh BRVT ra Bản kết luận điều tra vụ án số 05/KLĐT-CSĐT(PC46) ngày 04/02/2013, do Đại tá Nguyễn Ngọc Tường ký tên.

Ngày 15/4/2013, VKSND tỉnh BRVT ra Bản cáo trạng số 31/VKS-P1, do Phó Viện trưởng Vũ Xuân Rồng ký tên.

Ngày 05/9/2013, Tòa án Nhân dân tỉnh BRVT ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 12/2013/HSST-QĐ, do Thẩm phán Nguyễn Thị Thanh Huyền ký tên.

Ngày 22/11/2013, CQ CSĐT CA tỉnh BRVT ra Bản kết luận điều tra bổ sung vụ án số 391/BKLĐTBS-CSĐT(PC46), do Đại tá Nguyễn Ngọc Tường ký tên.

Ngày 13/12/2013, Tòa án Nhân dân tỉnh BRVT ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 21/2013/HSST-QĐ, do Thẩm phán Nguyễn Thị Thanh Huyền ký tên.

Sau khi Tòa án Nhân dân tỉnh BRVT trả lại hồ sơ lần thứ 2 để điều tra bổ sung, tôi được mời đến CQ CSĐT làm việc trực tiếp và đã cung cấp thêm nhiều thông tin cho điều tra viên tên Anh KSV Trần Văn Lân.

Ngày 15/01/2014, CQ CSĐT CA tỉnh BRVT ra Bản kết luận điều tra bổ sung vụ án số 01/BKLĐTBS-CSĐT(PC46), do Đại tá Nguyễn Ngọc Tường ký tên (ông Nguyễn Ngọc Tường nhận quyết định nghỉ chờ hưu kể từ tháng 2/2014).

Ngày 05/3/2014, VKSND tỉnh BRVT ra Cáo trạng số 08/VKS-P1, do Phó Viện trưởng Phạm Đình Cúc ký tên.

Ngày 10/3/2014, Tỉnh Ủy tỉnh BRVT có công văn số 2427-CV/TU chỉ đạo Ban Nội chính Tỉnh ủy nghiên cứu nội dung đơn khiếu nại và đơn kêu oan của tôi về vụ án, phối hợp với các cơ quan chức năng nắm tình hình vụ việc để báo cáo Thường trực Tỉnh ủy.

Kính thưa quý lãnh đạo!

Mỗi lần tôi nhận được Kết luận điều tra của CQCSĐT CA BRVT tôi đều có đơn khiếu nại gửi đúng thời hạn luật định trực tiếp đến Thủ trưởng CQCSĐT CA BRVT và các cơ quan điều tra, thanh tra thuộc Bộ Công An, các lãnh đạo cấp cao của Nhà nước. Mặc dù các cơ quan điều tra, thanh tra ở Bộ Công An đều chuyển đơn thư của tôi về cho Thủ trưởng CQCSĐT CA BRVT giải quyết theo thẩm quyền nhưng các đơn thư của tôi đều không được Thủ trưởng CQCSĐT CA BRVT giải quyết.

Mỗi lần tôi nhận được Bản cáo trạng của VKSND BRVT tôi đều có đơn khiếu nại gửi đúng thời hạn luật định trực tiếp đến Viện trưởng VKSND BRVT, VKSND Tối cao, TAND Tối cao, Tỉnh Ủy BRVT, Đại biểu QH tỉnh BRVT, các lãnh đạo cấp cao của Nhà nước. Tôi cũng đã nhận được các phiếu chuyển của các cơ quan VKSND Tối cao, TAND Tối cao, Thường trực ĐBQH BRVT cho biết đã chuyển đơn của tôi đến Viện trưởng VKSND BRVT để được giải quyết. Viện trưởng VKSND BRVT đã kéo rất dài quá thời gian giải quyết khiếu nại theo luật định. Đơn khiếu nại Cáo trạng số 31/VKS-P1 được ra QĐ giải quyết sau 97 ngày kể từ ngày VKS nhận được đơn, đơn khiếu nại Cáo trạng số 08/VKS-P1 được ra QĐ giải quyết sau 38 ngày kể từ ngày VKS nhận được đơn. Đồng thời, các quyết định giải quyết khiếu nại của Viện trưởng thì không rõ ràng và không có căn cứ. Việc giải quyết khiếu nại không rõ ràng và không có căn cứ của Viện trưởng VKSND BRVT thể hiện rõ tại phiên tòa sơ thẩm ngày 27/3/2015, tại đây vị đại diện VKS đã rút quyết định truy tố tôi về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.

Với những việc làm của các cơ quan thực thi pháp luật cố tình truy tố tôi một cách vô căn cứ buộc tôi phải làm rất nhiều đơn tố cáo Phó thủ trưởng CQCSĐT CA tỉnh BRVT, Đại tá Nguyễn Ngọc Tường, Kiểm sát viên VKSND BRVT Trần Văn Lân, Phó Viện trưởng VKSND BRVT Phạm Đình Cúc, Viện trưởng VKSND BRVT Nguyễn Thị Đầy, các cơ quan liên quan đến quá trình giải quyết đền bù đất cho ông Nguyễn Văn Đông từ cấp tỉnh BRVT đến cấp Thành Vũng Tàu, gửi đến các lãnh đạo các cấp, các cơ quan từ Trung ương đến địa phương tỉnh BRVT.

Báo Bảo vệ pháp luật cuối tuần (cơ quan của VKSND Tối cao) số 101 ngày 24/5/2014 có bài “Nóng vụ thất thoát gần 3,5 tỷ đồng sắp xét xử”. Từ ngày 24/5/2014 đến ngày 30/5/2014, Lãnh đạo VKSND Tối cao yêu cầu VKSND tỉnh BRVT kiểm tra vụ việc báo nêu, báo cáo lãnh đạo VKSND Tối cao phụ trách và Vụ 1 đồng thời gửi báo cáo về Văn phòng VKSND tối cao để theo dõi. (Theo thông báo ngày 30/5/2014 tại trang web của VKSND Tối cao).

Ngày28/5/2014, TAND BRVT đưa vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2014/HSST ngày 12/3/2014 ra xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh BRVT từ ngày 28/5/2014 đến ngày 30/5/2014, chủ tọa Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền, Hội thẩm nhân dân : Ông Hoàng Minh Mẫn, Ông Phạm Văn Huỳnh, Đại diện VKSND tỉnh BRVT : Ông Trần Văn Lân. Sau 3 ngày xét xử, TAND tỉnh BRVT đã quyết định hoãn xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Ngày 19/9/2014, đoàn kiểm tra số 4 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do ông Nguyễn Hòa Bình-Viện trưởng VKSND Tối cao dẫn đầu đã có buổi làm việc với Tỉnh ủy BRVT để triển khai kế hoạch số 90 của BCĐ về việc kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng và xử lý các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng (đoàn công tác làm việc từ ngày 19/9/2014 đến 03/10/2014). Sau khi nghe báo cáo, ông Phan Bá-Vụ trưởng Vụ 8, Ban nội chính Trung ương cũng đề nghị các cơ quan chức năng tập hợp hồ sơ để đoàn kiểm tra vụ án Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Thế Tiến bị truy tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. “Theo Ban Nội chính Trung ương, vụ án này không phải nhóm tham nhũng nên không đưa vào báo cáo tham nhũng là đúng. Tuy nhiên, quan điểm của chúng tôi là vụ án có vấn đề liên quan đến nhiều cán bộ, công chức có dấu hiệu của hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, biết đâu có tham nhũng. Vì thế chúng tôi đề nghị chuyển tài liệu vụ án này cho chúng tôi”-ông Bá nói. (Theo Báo Pháp luật ngày 20/9/2014). Trong thời gian làm việc của đoàn kiểm tra số 4 của Ban chỉ đạo Trung ương, qua một số nguồn tin tôi được biết Ban Nội chính Trung ương đã chỉ ra rằng các văn bản trả lời Thanh tra TPVT do UBND Phường 8 soạn thảo cung cấp thông tin cho Thanh tra TPVT là các văn bản hành chính thông thường, không phải là các văn bản quy phạm pháp luật nên cán bộ soạn thảo văn bản này không thể bị quy vào tội “Cố ý làm trái các quy định về quản lý kinh tế gây hậu qua nghiêm trọng”.

Theo thông tin từ Ban nội chính Trung ương đăng ngày 22/12/2014 tại trang web của Ban Nội chính Trung ương, Ban Nội chính Tỉnh ủy BRVT đưa vào danh sách theo dõi đôn đốc đối với vụ án Nguyễn Văn Đông (2 bị cáo) bị truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.

Ngày 27/12/2014, đoàn kiểm tra số 4 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do ông Nguyễn Hòa Bình-Viện trưởng VKSND Tối cao dẫn đầu đã có buổi làm việc với Tỉnh ủy BRVT nhằm thông qua dự thảo kết luận kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng và xử lý các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng. Dự thảo này được đưa ra sau thời gian hơn một tháng đoàn tiến hành làm việc với các cơ quan chức năng tỉnh BRVT. Trong dự thảo này có kiến nghị xử lý triệt để vụ án kéo dài : Vụ Nguyễn Thế Tiến bị CQĐT khởi tố tội cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng. (Theo Báo Pháp luật ngày 27/12/2014).

Ngày 27/3/2015, TAND BRVT tiếp tục đưa vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2014/HSST ngày 12/3/2014 ra xét xử sơ thẩm tại TAND BRVT từ ngày 24 đến 27/3/2015. Như vậy, hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2014/HSST ngày 12/3/2014 vẫn được lưu giữ tại TAND BRVT trong thời gian khoảng 10 tháng kể từ ngày Chủ tọa phiên tòa trước đó ngày 30/5/2014 tuyên hoãn phiên tòa, trả hồ sơ điều tra bổ sung. Thành phần trong phiên tòa ngày 27/3/2015 gồm : Chủ tọa : Thẩm phán : Ông Hoàng Thanh Tùng, Hội thẩm nhân dân : Ông Hoàng Minh Mẫn, Bà Nguyễn Thị Ngọc Sương, Đại diện VKSND tỉnh BRVT : Ông Phạm Hữu Dương.

Tại phiên tòa xét xử ngày 27/3/2015, trong phần phát biểu luận tội vị đại diện VKS rút quyết định truy tố đối với tôi về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, và cho rằng hành vi của tôi có dấu hiệu của tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên, vị đại diện VKS nêu ý kiến cho rằng tôi là cán bộ địa chính của phường lâu năm, có nhiều thành tích trong công tác; có thân nhân thân tốt; đã có thời gian phục vụ trong quân đội; bản thân đã nghỉ hưu từ 2010; hành vi của tôi chỉ gián tiếp gây hậu quả nghiêm trọng nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho tôi.

Tại bản án số 14/2015/HSST (trang 19), Hội đồng xét xử cho rằng nội dung Công văn số 245 và số 30 của UBND Phường 8 do tôi soạn thảo là sai sự thật về nguồn gốc, loại đất và thời gian tạm trú của gia đình Đông tại lô đất 248,28 m2 theo hướng có lợi cho Nguyễn Văn Đông. Theo các thông tin tại công văn mà thôi soạn thảo thì lô đất 248,28 m2 tại 261B Lê Hồng Phong của gia đình Đông sẽ có đủ điều kiện để bồi thường quyền sử dụng đất. Nhận xét này của Hội đồng xét xử là không đúng và trái ngược hoàn toàn với nhận xét của Tòa án Nhân dân cấp cao tại TP HCM khi cho rằng lô đất 248,28 m2 là đất này Nhà nước quản lý, trường hợp việc sử dụng đất là từ năm 1990 như Đông khai thì cũng không đủ điều kiện bồi thường quyền sử dụng đất. Chi tiết về nhận xét không đúng của Hội đồng xét xử ngày 27/3/2015 sẽ được nêu cụ thể hơn ở phần sau.

Cũng tại bản án số 14/2015/HSST (trang 19), Hội đồng xét xử cho rằng : “Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thế Tiến là sai phạm, nhưng hành vi đó không vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, nên không có căn cứ để quy kết bị cáo Nguyễn Thế Tiến phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, như đã nêu ở phần trên Nguyễn Thế Tiến là cán bộ địa chính lâu năm ở phường 8, biết rất rõ về nguồn gốc và tình trạng sử dụng khu đất tại 261B-Lê Hồng Phong của gia đình Đông, nhưng khi soạn thảo các công văn cho Chủ tịch UBND phường 8 đã phản ánh không đúng thực chất tình trạng sử dụng lô đất mà Tiến biết rất rõ, gây hậu quả nghiêm trọng. Điều đó thể hiện Nguyễn Thế Tiến đã không làm tròn trách nhiệm của cán bộ địa chính cấp xã, phường mà các văn bản hướng dẫn Luật đất đai đã quy định. Hành vi của bị cáo Tiến có dấu hiệu của tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 285 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên hành vi của Nguyễn Thế Tiến chỉ là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến việc Chủ tịch UBND TP Vũng Tàu ra quyết định bồi thường quyền sử dụng đất cho Nguyễn Văn Đông không đúng pháp luật, mà còn do việc thiếu trách nhiệm của Chủ tịch UBND phường 8-là người trực tiếp ký các công văn do Tiến soạn thảo, cũng như việc thiếu trách nhiệm của một số cán bộ của một số cơ quan chức năng, mà cụ thể là các cán bộ được giao trực tiếp chỉ đạo hoặc trực tiếp thụ lý giải quyết khiếu nại của Nguyễn Văn Đông tại Thanh tra TP Vũng Tàu và Thanh tra tỉnh nên mới dẫn đến việc bồi thường sai quy định. Hơn nữa, sau khi có báo cáo của Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng TP Vũng Tàu cho rằng việc bồi thường quyền sử dụng đất cho Nguyễn Văn Đông là không đúng, Chủ tịch UBND TP Vũng Tàu đã ban hành quyết định tạm dừng việc thực hiện Quyết định 786 (Tức tạm dừng việc bồi thường quyền sử dụng đất và bố trí tái định cư cho Nguyễn Văn Đông) để tiến hành kiểm tra lại, nhưng do việc thiếu trách nhiệm của những cán bộ được giao giải quyết khiếu nại của Nguyễn Văn Đông lần 2 tại Thanh tra tỉnh nên hậu quả của sự việc đã không được ngăn chặn mà tiếp tục xảy ra. Những cán bộ này đều không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nên việc truy tố một mình Nguyễn Thế Tiến là không công bằng.

Xét thấy, bị cáo Nguyễn Thế Tiến là cán bộ địa chính của phường lâu năm, có nhiều thành tích trong công tác; bản thân đã nghỉ hưu từ 2010; hành vi của bị cáo chỉ gián tiếp gây hậu quả nghiêm trọng, nên tính chất nguy hiểm của hành vi do bị cáo thực hiện hạn chế; tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát rút quyết định truy tố đối với bị cáo Tiến về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” nên không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp thuận ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, miễm trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nguyễn Thế Tiến.”

Sau phiên tòa sơ thẩm ngày 27/3/2015, ông Nguyễn Văn Đông có kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 14/2015/HSST ngày 27/3/2015.

Ngày 14/10/2015, TAND Cấp cao tại TP HCM xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 282/2015/TLPT-HS ngày 13/5/2015. Thành phần Hội đồng xét xử gồm : Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Ngọc Lâm, các thẩm phán : Ông Phan Thanh Tùng, Ông Nguyễn Hữu Ba, Đại diện VKSND cấp cao tại TP HCM tham gia phiên tòa : Ông Nguyễn Văn Tùng-Kiểm sát viên.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại TP HCM đề nghị Hội đồng xét xử chấp thuận một phần kháng cáo của bị cáo Đông: Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh BRVT để điều tra lại vì việc điều tra ở cấp sơ thẩm có nhiều vấn đề chưa được làm rõ mà cấp phúc thẩm không thể điều tra bổ sung được.

Tại bản án số 499/2015/HS-PT ngày 14/10/2015 (trang 14), Hội đồng xét xử nhận định : “Xét kháng cáo kêu oan của Nguyễn Văn Đông, Hội đồng xét xử xét thấy: Diện tích 248,28 m2 đất (trên đó có căn nhà tạm mà Đông mua của ông Uẩn năm 1999) khi Nhà nước thu hồi vào năm 2005 (theo Quyết định 5129 ngày 30/12/2005 của UBND tỉnh BRVT) đã được UBND phường 8 xác định rõ tại danh sách thu hồi đất ngày 04/7/2006 (BL322) là: đất có nguồn gốc chiếm dụng của Nhà nước để làm nhà ở, không đủ điều kiện đền bù quyền sử dụng đất, sổ tạm trú có tẩy sửa thời gian.

Theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và theo quy định chung của pháp luật về đất đai cũng như thực tế thời gian sử dụng đất của gia đình Đông thì đất bị thu hồi không thuộc diện sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993. Trường hợp việc sử dụng đất là từ năm 1990 như Đông khai thì cũng không đủ điều kiện bồi thường quyền sử dụng đất vì đất này Nhà nước quản lý và đã có quyết định giao đất cho các cơ quan, đơn vị khác. Ngoài ra đất bị thu hồi không có các giấy tờ theo quy định tại điều 50 Luật đất đai năm 2003 để được giải quyết bồi thường theo quy định của pháp luật. Vì vậy, ngày 29/8/2006, Chủ tịch UBND TP Vũng Tàu đã ban hành Quyết định số 2325 thu hồi đất của gia đình Đông và không bồi thườngdiện tích đất thu hồi, chỉ đền bù vật kiến trúc, hoa màu trên đất.

Mặt khác, Hội đồng xét xử thấy việc gia đình Đông ở tại căn nhà tạm (ban đầu là thuê của ông Uẩn vào 1995 và sau đó là mua lại vào tháng 9 năm 1999) và việc gia đình Đông đăng ký tạm trú từ 27/5/1999 là có thật. Chỉ đến khi có các quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với nội dung không bồi thường giá trị đất và không cấp đất tái định cư cho gia đình Đông thì mới phát sinh việc Đông có hành vi gian dối về thời gian mua nhà tạm và tẩy sửa thời gian tạm trú như đã nêu trên. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đông không thừa nhận các hành vi gian dối này mà cho rằng ai làm bị cáo không biết. Tuy nhiên, theo các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai của Đông tại cơ quan điều tra đã thể hiện rõ việc này, nhưng cũng phải thấy rằng ngay từ đầu bị cáo chưa có ý thức chiếm đoạt tiền của Nhà nước và việc Đông nộp các giấy tờ (sai thực tế) nêu trên cũng không phải là được giải quyết bồi thường (giá trị đất và cấp đất tái định cư) ngay. Việc Đông sử dụng các giấy tờ (có gian dối về thời gian) là để khiếu nại các quyết định hành chính và xin được giải quyết bồi thường giá trị đất và cấp đất tái định cư theo quy định của pháp luật. Còn việc xem xét có chấp thuận những yêu cầu đó của Đông hay không lại phải qua nhiều bước thanh tra, xác minh của nhiều cơ quan như hồ sơ đã thể hiện và quyết định cuối cùng vẫn thuộc về thẩm quyến của các cơ quan Nhà nước có liên quan, không phụ thuộc vào yêu cầu chủ quan của Đông và các giấy tờ tài liệu không đúng thực tế do Đông nộp.

Như vậy, cá nhân Đông với các loại giấy tờ và hành vi gian dối như tòa sơ thẩm quy kết cũng không thể lừa chính quyền địa phương và các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại để chiếm đoạt được tiền của Nhà nước trong khi việc ban hành các quyết định hành chính và giải quyết khiếu nại lần 1 đã căn cứ đúng thực tế sử dụng đất và quy định chung để giải quyết việc thu hồi đất và vấn đề bồi thường.

Phân tích về vấn đề ngày, Vị Đại diện VKS cấp cao cho rằng khi giải quyết khiếu nại lần sau, những ngươi trực tiếp giải quyết khiếu nại đã không áp dụng điểm c khoản 1 Điều 44 Luật khiếu nại năm 1999 để giải quyết vụ việc của Đông, quy định đó là : Trong quá trình giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo, người giải quyết khái nại có quyền yêu cầu người giải quyết khiếu nại trước đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp thông tin, tài liệu và những bằng chứng liên quan đến nội dung khiếu nại.

Mặt khác, Vị Đại diện VKSND cấp cao cũng nêu ra các vấn đề khác như : Phải làm rõ được ý thức chủ quan của những người liên quan đến việc giải quyết khiếu nại của Đông. Việc giải quyết khiếu nại lần 2 có dựa vào các bằng chứng không đúng thực tế về thời gian tạm trú của gia đình Đông tại 261B Lê Hồng Phong và thời gian mua lại căn nhà tạm tại địa chỉ trên hay không? Thực tế là gia đình Đông bắt đầu ở tại khu đất trên từ năm 1995 nhưng hồ sơ thể hiện thời gian gia đình bị cáo cưu trú tại BRVT có nhiều mâu thuẫn (năm 1990, 1994, 1999) điều này chưa được làm rõ.

…………..

Qua nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử và các lập luận của Đại diện VKS cấp cao thì vấn đề đặt ra là cần thiết phải xem xét, giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, tránh oan, sai hoặc bỏ lọt người phạm tội.”

Cuối cùng Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số: 14/2015/HSST ngày 27/3/2015 của TAND tỉnh BRVT. Chuyển hồ sơ vụ án nêu trên cho VKSND tỉnh BRVT để điều tra lại.

Sau khi xét xử phúc thẩm ngày 14/10/2015, Tòa tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra lại thì tôi được Phó thủ trưởng CQ CSĐT CA tỉnh BRVT, Đại Tá Nguyễn Huy Cương mời đến CQ CSĐT CA tỉnh BRVT làm việc với điều tra viên Đặng Văn Thu vào ngày 20/4/2016.

Kính thưa quý lãnh đạo!

Vụ án liên quan đến tôi đã kéo dài từ lúc điều tra, khởi tố, truy tố, xét xử lần đầu, xét xử lần 2 và xét xử phúc thẩm hủy toàn bộ bản án để điều tra lại đến nay đã hơn 4 năm với sự tham gia điều tra của 4 điều tra viên (Nguyễn Hồng Dương, Trương Huy Hoan, điều tra viên tên Anh, Đặng Văn Thu) và 2 Phó Thủ trưởng CQ CSĐT CA tỉnh BRVT (Đại tá Nguyễn Ngọc Tường, Đại tá Nguyễn Huy Cương); sự tham gia kiểm sát vụ án, phê duyệt khởi tố, truy tố của 2 kiểm sát viên (Trần Văn Lân, Phạm Hữu Dương) và 2 Phó Viện trưởng VKSND tỉnh BRVT (Vũ Xuân Rồng, Phạm Đình Cúc); đã qua 3 lần mở phiên tòa xét xử với tổng thời gian xét xử 8 ngày (2 lần ở cấp sơ thẩm và 1 lần ở cấp phúc thẩm) với số người tham gia Hội đồng xét xử gồm 4 thẩm phán, 3 Kiểm sát viên, 3 Hội thẩm nhân dân; với 3 bản kết luận điều tra, 2 bản cáo trạng, 2 lần trả hồ sơ điều tra bổ sung (Tòa sơ thẩm) và 1 lần hủy án trả hồ sơ để điều tra lại (Tòa phúc thẩm). Đặc biệt có sự chỉ đạo, giám sát của Ban nội chính Trung ương, Ban Nội chính tỉnh BRVT, Tỉnh ủy tỉnh BRVT, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Đoàn kiểm tra số 4 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do ông Nguyễn Hòa Bình-Viện trưởng VKSND Tối cao dẫn đầu. Tuy nhiên, đến nay tôi vẫn chưa biết mình đã phạm tội gì, có còn bị khởi tố về tội “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” nữa hay không bởi tại phiên tòa sơ thẩm ngày 27/3/2015, vị Đại diện VKS đã rút quyết định truy tố tôi về tội danh nói trên.

Kính thưa quý lãnh đạo!

Công văn số 245 và số 30 của UBND Phường 8 do tôi soạn thảo không có nội dung nào thể hiện tôi cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế và cũng không phải là nguyên nhân gây nên hậu quả trong việc ông Đông được bồi thường quyền sử dụng đất và cấp đất tái định cư, cụ thể như sau:

Nội dung công văn số 245 và số 30 thể hiện diện tích đất 248,28 m2 do ông Đông sử dụng thuộc tờ bản đố số 5, thửa 372 có nguồn gốc : năm 1989 phường 8 lập bản đồ giải thửa thuộc đất Nhà nước chưa sử dụng, trên bản đồ địa chính phường năm 1989 kí hiệu là đất hoang. Ngoài ra còn có nội dung cung cấp thông tin theo sổ đăng ký tạm trú của ông Đông (đã có chứng thực của UBND phường 8) thì ông Đông cư trú tại số 261 Khu B Lê Hồng Phong từ năm 1990, diện tích đất 248,28 m2 có 1 căn nhà tạm do ông Nguyễn Công Uẩn bán cho ông Đông sử dụng từ tháng 9/1991.

Với 2 nội dung chính nêu trên, nội dung về nguồn gốc đất tôi đã báo báo đúng chính xác thuộc đất Nhà nước chưa sử dụng, còn về nội dung thông tin về thời gian cư trú của ông Đông và thời gian mua bán căn nhà tạm trên đất sau khi cơ quan điều tra vào cuộc mới biết là không đúng với thực tế do sự gian dối của ông Đông.

Nếu cơ quan điều tra cho rằng việc UBND phường 8 báo cáo về thời gian cư trú và sử dụng diện tích 248,28 m2 của ông Đông thể hiện đất này sử dụng ổn định trước năm 1993 để các cơ quan giải quyết khiếu nại làm căn cứ bồi thường cho ông Đông gây hậu quả nghiêm trọng là không đúng bởi lẽ : theo văn bản hướng dẫn luật đất đai năm 2003 mà cụ thể là Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ Quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai ghi rõ :

“Điều 3. Đất sử dụng ổn định tại khoản 4 Điều 50 của Luật Đất Đai

1. Đất sử dụng ổn định quy định tại khoản 4 Điều 50 của Luật Đất đai là đất đáp ứng một trong các tiêu chí sau đây:

a) Đất đã được sử dụng liên tục cho một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm được cấp Giấy chứng nhận hoặc đến thời điểm có quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp Giấy chứng nhận;

b) Trường hợp đất đã được sử dụng liên tục quy định tại điểm a khoản này mà có sự thay đổi về người sử dụng đất và sự thay đổi đó không phát sinh tranh chấp về quyền sử dụng đất.”

Qua diễn biến của 2 phiên tòa ở cấp sơ thẩm và căn cứ văn bản hướng dẫn luật đất đai nêu trên thì mặc dù ông Đông thực tế không sử dụng diện tích đất 248,28 m2 từ năm 1993 nhưng đất này về bản chất vẫn được xem là đất sử dụng ổn định từ trước năm 1993.

Như vậy, bản chất sự việc đất của ông Đông sử dụng thuộc đất Nhà nước chưa sử dụng và đã được gọi là đất sử dụng ổn định từ trước năm 1993.

Nếu cơ quan điều tra kết luận đất thuộc đất Nhà nước chưa sử dụng và được người dân sử dụng ổn định từ trước năm 1993 thì được bồi thường là đúng thì cơ quan điều tra đã khởi tố oan cho tôi.

Nếu cơ quan điều tra cho rằng đất thuộc đất Nhà nước chưa sử dụng và được người dân sử dụng ổn định từ trước năm 1993 thì được bồi thường là không đúng thì trách nhiệm này thuộc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại của ông Đông.

Từ thực tế sự việc nêu trên cho thấy nếu việc bồi thường quyền sử dụng đất cho ông Đông được kết luận là sai thì nội dung 2 văn bản của UBND phường 8 cũng không phải là nguyên nhân liên quan đến việc bồi thường sai này. Do đó, bản thân tôi không có dấu hiệu phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng như nhận định của vị Đại diện VKS và Hội đồng xét xử tại phiên Tòa sơ thẩm ngày 27/3/2015.

Vụ án bị kéo dài là do CQ CSĐT CA BRVT cố tình không điều tra, làm rõ yêu cầu của TAND tỉnh BRVT trong 2 lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đó là : “khi xét khiếu nại, cơ quan chức năng đã áp dụng điều kiện nào của pháp luật để xác định đất bị cáo Đông đủ điều kiện bồi thường và cấp đất tái định cư (Xác định rõ bằng khoản, điều luật văn bản áp dụng )”. Bởi vì, nếu điều tra và kết luận rằng cơ quan chức năng căn cứ vào điều khoản đất sử dụng ổn định trước năm 1993 để bồi thường là đúng thì việc khởi tố vụ án này là có sai sót từ phía CQ CSĐT CA tỉnh BRVT bởi vì bản chất đất 248,28 m2 này là đất được người dân sử dụng ổn định trước năm 1993.

Kính thưa quý lãnh đạo!

Từ những những nội dung nêu trên, tôi kính đề nghị quý vị lãnh đạo, các cơ quan có thẩm quyền cho tôi được biết hiện nay tôi có còn bị khởi tố về tội “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng” nữa hay không? Tôi có còn bị cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh cấm số 02/CSĐT-PC46 ngày 29/10/2012?

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 107, khoản 1 Điều 169 Bộ luật tố tụng hình sự.

Kính đề nghị Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đình chỉ vụ án đối với tôi, đồng thời khôi phục đầy đủ quyền công dân cho tôi.

Tôi cam kết những nội dung nêu trên là hoàn toàn đúng sự thật, có đầy đủ bằng chứng để chứng minh và chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.

Mọi thông tin trả lời vui lòng gửi cho tôi theo địa chỉ : Nguyễn Thế Tiến, Địa chỉ : 141/1/22 Chu Mạnh Trinh, phường 8, TP Vũng Tàu, Bà Rịa-Vũng Tàu, Điện thoại : 0918.461.862.

Rất mong sớm nhận được sự giải quyết của quý lãnh đạo.

Xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào!

Vũng Tàu, ngày 06 tháng 06 năm 2016

Người viết đơn

Nguyễn Thế Tiến

Các tài liệu gửi kèm:

  1. Cáo trạng số 08/VKS-P1 ngày 05/3/2014
  2. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 12/2013/HSST-QĐ ngày 05/9/2013
  3. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 21/2013/HSST-QĐ ngày 13/12/2013
  4. Bản kết luận điều tra vụ án số 05/KLĐT-CSĐT(PC46) ngày 04/02/2013
  5. Bản kết luận điều tra bổ sung vụ án số 391/BKLĐTBS-CSĐT(PC46) ngày 22/11/2013
  6. Bản kết luận điều tra bổ sung vụ án số 01/BKLĐTBS-CSĐT(PC46) ngày 15/01/2014
  7. Đơn khiếu nại Cáo trạng số 08/VKS-P1 ngày 05/3/2014
  8. Báo cáo số 38/BC-TTr ngày 04/3/2010
  9. Quyết định số 786/QĐ-UBND ngày 12/3/2010
  10. Báo cáo số 31/BC-BBT ngày 19/3/2010
  11. Công văn số 832/UBND-VP ngày 05/5/2010
  12. Quyết định số 1783/QĐ-UBND ngày 28/7/2010
  13. Bản án số 14/2015/HSST ngày 27/3/2015
  14. Bản án số 499/2015/HS-PT ngày 14/10/2015

CẢM ƠN QUÝ BẠN ĐỌC ĐÃ GHÉ THĂM WEDSITE!

By admin

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *